Báo cáo Tóm tắt Chính sách số 2 | Tháng 03/2018 Khoảng cách giới về thu nhập ở Việt Nam: tại sao phụ nữ Việt Nam làm việc trong CHƯƠNG TRÌNH ĐỐI những ngành nghề có thu nhập thấp hơn? TÁC AUSTRALIA - NGÂN HÀNG THẾ GIỚI - GIAI Tác giả: Iffat Chowdhury, Hillary Johnson, Aneesh Mannava và Elizaveta ĐOẠN II (ABP-II) Perova Chương trình Đối tác Australia - Ngân hàng Thế giới - Giai đoạn II (ABP-II) tiến hành phân tích toàn CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH diện dựa trên dữ liệu và • Phụ nữ ở Việt Nam có thu nhập trung bình năm thấp hơn 3 triệu bằng chứng về những thách thức mới trong bình đồng so với nam giới, tương đương thu nhập trong một tháng. đẳng giới và hỗ trợ các Mức chênh lệch này không thay đổi trong giai đoạn 2011 - 2014. nhà hoạch định chính sách và các hoạt động • Khoảng cách về thu nhập vẫn tồn tại mặc dù khoảng sáng tạo nhằm giải quyết cách về học vấn đã được thu hẹp, một phần là do nhiều những thách thức này và phụ nữ làm việc trong các ngành có thu nhập thấp. tăng cường trao quyền kinh tế cho phụ nữ. • Phụ nữ từ bỏ mức lương cao hơn để làm việc trong các ngành nghề có các phúc lợi phi tiền tệ tốt hơn: nghỉ phép có lương, PHÒNG NGHIÊN CỨU số giờ làm việc trong tuần ít hơn, bảo hiểm y tế và bảo hiểm SÁNG KIẾN GIỚI ĐÔNG xã hội. Lựa chọn này có thể được thúc đẩy bởi sự phân chia Á VÀ THÁI BÌNH DƯƠNG không đều trong việc nhà và việc chăm sóc gia đình. Phòng nghiên cứu Sáng kiến Giới Đông Á và Thái Bình Dương (EAPGIL) tiến hành đánh giá tác BỐI CẢNH động và nghiên cứu suy luận để đưa ra dẫn chứng Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong việc thu hẹp khoảng về những biện pháp hiệu cách giới về giáo dục và tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng quả nhằm thu hẹp khoảng cách giới về tài sản, cơ lao động. Tuy nhiên, các cơ hội trên thị trường lao động của phụ nữ có hội kinh tế và hoạt động ngang bằng với nam giới? Chúng tôi tiến hành phân tích khoảng cách giới kinh tế, và vai trò của việc về thu nhập và xác định được rằng xu hướng làm việc trong những nghề có thu hẹp khoảng cách giới thu nhập thấp hơn của phụ nữ là nguyên nhân chính gây ra khoảng cách để đạt được các mục tiêu phát triển khác. HÌNH 1: THU NHẬP CỦA NỮ GIỚI SO VỚI THU NHẬP CỦA NAM GIỚI TRONG CÁC KHU VỰC KHÁC NHAU. % THU NHẬP CỦA NỮ GIỚI SO VỚI NAM GIỚI Tất cả các khu vực Thu nhập  của nữ giới Quốc doanh Khoảng  Ngoài quốc cách giới về doanh thu nhập Nông nghiệp Phi nông nghiệp 75% 80% 85% 90% 95% 100% giới về thu nhập. Chúng tôi cũng đưa ra các bằng yy Phụ nữ có gặp khó khăn hơn khi tìm kiếm việc chứng gợi ý về lý do phụ nữ chọn làm việc trong làm trong ngành học của mình khi chuyển tiếp từ những ngành nghề có thu nhập thấp hơn. học sang làm hay không? yy Có phải phụ nữ từ bỏ những ngành nghề trả CÁCH THỨC THỰC HIỆN lương cao hơn để có được công việc linh hoạt Chúng tôi sử dụng kết hợp dữ liệu từ các Báo cáo hơn: thời gian làm việc ngắn hơn và chế độ nghỉ Điều tra Lao động và Việc làm (LFS) của Việt Nam, phép tốt hơn? Khảo sát Những cuộc đời trẻ thơ (Young Lives Survey) và Chương trình Đo lường Kỹ năng STEP PHÁT HIỆN của Ngân hàng Thế giới để trả lời các câu hỏi sau: Khoảng cách về thu nhập vẫn luôn tồn tại ở Việt • Khoảng cách thu nhập giữa nam giới và nữ giới Nam ở Việt Nam lớn như thế nào? Số liệu hàng năm1 từ LFS trong giai đoạn 2011 - 2014 cho thấy phụ nữ có thu nhập ít hơn trung bình • Nguyên nhân nào gây ra khoảng cách này? 3.000.000 đồng (khoảng 130 USD2) so với nam giới Khuynh hướng lựa chọn các ngành nghề khác mỗi năm, tức là gần bằng thu nhập trong một tháng. nhau của nữ giới và nam giới có phải là một Thu nhập của lao động nam nhiều hơn của lao động nguyên nhân không? nữ cả trong khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh • Tại sao phụ nữ luôn lựa chọn làm việc trong và trong các ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp. những nghề có thu nhập thấp hơn? Chúng tôi Khoảng cách này vẫn không đổi trong suốt bốn năm nghiên cứu ba giả thuyết: thu thập dữ liệu LFS mà chúng tôi sử dụng. yy Các chuẩn mực xã hội về công việc phù hợp Khoảng cách về thu nhập tồn tại trong tất cả các cho nam và nữ có định hướng các mong nhóm tuổi, gia tăng quanh độ tuổi sinh đẻ và tăng đột muốn và lựa chọn học tập ở độ tuổi thanh biến ở nhóm tuổi 55-59 gần độ tuổi về hưu của phụ thiếu niên hay không? nữ (55 tuổi). Khoảng cách này được thu hẹp lại khi nam giới về hưu ở tuổi 60. 1 Báo cáo Điều tra Lao động Việc làm chỉ có thông tin về lương của lao động nam và nữ hiện đang làm công ăn lương (không phải tự doanh hoặc làm không lương). 2 Giả định thời gian làm việc là 40 giờ/tuần, 52 tuần/năm. Chuyển đổi sang USD dựa trên tỷ giá hối đoái năm 2017 là 22.700 VNĐ = 1 USD. HÌNH 2: KHOẢNG CÁCH VỀ THU NHẬP Ở CÁC NHÓM TUỔI KHÁC NHAU 0% -10% -20% -30% -40% -50% 15-19 20-24 25-29 30-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-59 60 và cao hơn Lưu ý: Các vạch thể hiện khoảng tin cậy 95% Nguyên nhân của khoảng cách giới về thu nhập HÌNH 3: THU NHẬP CỦA NỮ GIỚI SO VỚI ở Việt Nam? THU NHẬP CỦA NAM GIỚI TRONG CÁC Khác biệt về giáo dục có thể giải thích hợp lý cho NHÓM CÓ ĐẶC ĐIỂM TƯƠNG TỰ NHAU. khoảng cách về thu nhập. Tuy nhiên, ở Việt Nam, % THU NHẬP CỦA NỮ GIỚI SO VỚI NAM GIỚI nữ giới có thu nhập thấp hơn nam giới mặc dù có trình độ học vấn cao hơn. Cột B ở Hình 3 cho thấy đối với nữ giới và nam giới có cùng trình độ học vấn, 93% khoảng cách thu nhập thậm chí còn lớn hơn. Khi thêm yếu tố ngành, nghề vào phân tích, chúng tôi nhận thấy khoảng cách thu nhập giữa nam giới và nữ giới có cùng trình độ học vấn, làm việc trong A - Nam giới và nữ giới có đặc điểm cùng ngành nghề thấp hơn khoảng cách thu nhập xã hội - nhân khẩu học tương tự nhau giữa nam và nữ có cùng trình độ học vấn (Cột 3 Hình 3). Điều này cho thấy một yếu tố quan trọng dẫn đến khoảng cách giới về thu nhập là xu hướng 89% của phụ nữ làm việc trong các ngành nghề có thu nhập thấp hơn so với nam giới. Tại sao phụ nữ ở Việt Nam chọn làm việc trong những ngành nghề có thu nhập thấp hơn so với nam giới? B - A+ trình độ học vấn tương tự nhau Chúng tôi kiểm tra ba giả thuyết về lý do phụ nữ chọn làm việc ở những nghề có thu nhập thấp hơn. 91% Đầu tiên, chúng tôi tìm hiểu vai trò của chuẩn mực xã hội. Các chuẩn mực xã hội về nghề nghiệp phù hợp cho nam và nữ thường được dạy từ khi còn nhỏ và có thể ảnh hưởng đến nguyện vọng và lựa chọn học tập của học sinh nam và nữ, bao gồm cả ngành C - B+ ngành nghề học mà họ lựa chọn. Ngành học làm giới hạn các tương tự nhau lựa chọn nghề nghiệp cho một cá nhân và hành trình suốt đời của họ trong thị trường lao động. Để kiểm tra giả thuyết này, chúng tôi sử dụng dữ liệu về nghề nghiệp mong muốn của học sinh nam và nữ ở tuổi 12 từ Khảo sát Những cuộc đời trẻ thơ LỜI CẢM ƠN và so sánh với số liệu về thu nhập trong các nghề này từ LFS. Chúng tôi kiểm tra xem có khoảng cách giới về thu nhập hay không nếu những người Báo cáo chính sách này này theo đuổi nghề nghiệp mà họ mong muốn ở tuổi 12. Chúng tôi thấy rằng được soạn thảo trong khuôn học sinh nữ mong muốn làm trong những nghề có thu nhập cao hơn học sinh khổ hợp tác giữa Chương nam. trình Đối tác Australia - Ngân hàng Thế giới - Giai đoạn Thứ hai, sử dụng dữ liệu STEP, chúng tôi kiểm tra xem phụ nữ có gặp nhiều II (ABP2) tại Việt Nam và khó khăn hơn khi tìm kiếm việc làm trong ngành học của họ hay không. Phòng nghiên cứu Sáng kiến Chúng tôi không thấy có bất kỳ bằng chứng nào hỗ trợ cho giả thuyết này Giới Đông Á và Thái Bình cũng như cho giả thuyết rằng phụ nữ có xác suất làm công việc phù hợp với Dương (EAPGIL). ABP-II ngành học cao hơn nam giới. được tài trợ bởi Chính phủ Thứ ba, chúng tôi tìm hiểu xem có phải phụ nữ chọn làm việc ở những nghề Australia và EAPGIL được có thu nhập thấp hơn để đảm bảo việc làm với thời gian linh hoạt hơn và tài trợ bởi Quỹ Bảo vệ Bình phúc lợi phi tiền tệ tốt hơn. Thật vậy, sử dụng dữ liệu LFS, chúng tôi thấy đẳng Giới của Nhóm Ngân rằng phụ nữ làm việc trong những ngành nghề có chế độ tốt hơn về nghỉ hàng Thế giới (UFGE) phép, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và có hợp đồng chính thức. Lao động với sự hợp tác của Bộ nữ cũng làm việc trung bình ít hơn hai giờ đồng hồ mỗi tuần so với lao động Ngoại giao và Thương mại nam. Australia. UFGE đã nhận được các khoản đóng góp lớn từ Australia, Canada, KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Phân tích của chúng tôi đề xuất rằng so với nam giới, phụ nữ sẵn lòng từ bỏ Iceland, Hà Lan, Na Uy, Tây mức lương cao hơn để đảm bảo việc làm với số giờ làm việc hàng tuần, chế Ban Nha, Thụy Điển, Thụy độ nghỉ phép, bảo hiểm tốt hơn và có hợp đồng. Một yếu tố có thể là động cơ Sĩ, Anh và Hoa Kỳ. Thông cho ưu tiên này là sự phân công việc nhà không đồng đều. Trên thực tế, phụ báo về báo cáo chính sách nữ ở Việt Nam dành nhiều hơn 14 giờ mỗi tuần so với nam giới để làm việc này có tại: www.worldbank. nhà và chăm sóc con cái hoặc người cao tuổi3. org/en/country/vietnam và Bằng chứng này gợi ý hai cách can thiệp có tiềm năng thu hẹp khoảng cách http://worldbank.org/eapgil giới về thu nhập ở Việt Nam. Thứ nhất, các hoạt động can thiệp giúp phụ nữ cân bằng tốt hơn giữa vai trò trong gia đình và vai trò trong công việc mà không phải mất nhiều chi phí thị trường lao động có thể giúp giải quyết vấn đề này - ví dụ như cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em đầy đủ với giá cả phải chăng và dễ tiếp cận, hoặc cho phép sử dụng các phương án làm việc linh hoạt. Thứ ĐỂ BIẾT THÊM THÔNG TIN hai, các hoạt động can thiệp nhằm khuyến khích phân chia việc chăm sóc gia Elizaveta Perova, EAP GIL đình và gánh nặng công việc công bằng hơn - ví dụ như các sáng kiến về pháp eperova@worldbank.org lý hoặc của khu vực tư nhân cho phép nam giới và nữ giới có thời gian nghỉ chăm sóc con cái như nhau, cũng như các chương trình nhằm thay đổi thái độ Helle Buchhave, ABPII Gender của nam giới đối với việc làm việc nhà. hbuchhave@worldbank.org http://www.worldbank.org/eapgil Để Ngôi nhà Trở thành Tổ ấm, Báo cáo Tóm tắt chính sách của tổ chức Action Aid 3