Nghiên Cứu Ô Nhiễm Nông Nghiệp Khu Vực của Ngân Hàng Thế giới Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt 2017 Nghiên Cứu Ô Nhiễm Nông Nghiệp Khu Vực của Ngân Hàng Thế giới Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt 2017 Báo cáo trình cho Ban Môi trường và Nông Nghiệp của Ngân Hàng Thế Giới Tác giả của Emilie Cassou, with Dai Nghia Tran, Tin Hong Nguyen, Tung Xuan Dinh, Cong Van Nguyen, Binh Thang Cao, Steven Jaffee, and Jiang Ru © 2017 Ngân hàng Tái thiết và Phát triển / Ngân hàng Thế giới 1818 H Street NW Washington DC 20433 Điện thoại: 202-473-1000 Internet: www.worldbank.org Công việc này là sản phẩm của nhân viên Ngân hàng Thế giới. Những phát hiện, diễn giải, và kết luận được thể hiện trong tác phẩm này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Ngân hàng Thế giới, Hội đồng Quản trị, hoặc các chính phủ mà họ đại diện. Ngân hàng Thế giới không bảo đảm tính chính xác của dữ liệu được bao gồm trong tài liệu này. Các ranh giới, màu sắc, mệnh giá, và các thông tin khác được hiển thị trên bất kỳ bản đồ nào trong tác phẩm này không ngụ ý bất kỳ phán quyết nào của Ngân hàng Thế giới liên quan đến tình trạng pháp lý của bất kỳ lãnh thổ nào hoặc sự chứng thực hoặc chấp nhận của ranh giới như vậy. Quyền lợi và sự cho phép Tài liệu trong tác phẩm này phải tuân theo bản quyền. Vì Ngân hàng Thế giới khuyến khích phổ biến kiến thức của mình, tác phẩm này có thể được sao chép, toàn bộ hoặc một phần, cho các mục đích phi thương mại miễn là ghi rõ đầy đủ công trình này. Mọi truy vấn về quyền và giấy phép, bao gồm các quyền phụ thuộc, phải được gửi tới Ban Ấn phẩm của Ngân hàng Thế giới, Nhóm Ngân hàng Thế giới, 1818 H Street NW, Washington, DC 20433, USA; fax: 202-522-2625; e-mail: pubrights@worldbank.org. Trích dẫn báo cáo này như sau: Cassou, E., D. N. Tran, T. H. Nguyen, T. X. Dinh, C. V. Nguyen, B. T. Cao, S. Jaffee, và J. Ru. 2017. “Khái quát về ô nhiễm nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt.” Chuẩn bị cho Ngân Hàng Thế giới, Washington, DC. Ảnh bìa, theo chiều kim đồng hồ từ phía trên bên trái (cần thêm giấy phép để tái sử dụng): • Cà phê chọn. © imageBROKER / Alamy Stock photo. • Trại nuôi lợn ở Phú Thọ. © CIAT (Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế) (CC BY-NC-SA 2.0). • Tôm. © đào tạo111 / Shutterstock. • Xử lý thuốc trừ sâu trên ruộng lúa. © André van der Stouwe (CC BYNC-SA 2.0). MỤC LỤC Abbreviations...................................................................................................................................... iii Lời tựa...................................................................................................................................................iv Giới thiệu..................................................................................................... 1 Trọng tâm hàng hóa......................................................................................................................2 Các phát hiện............................................................................................... 5 Ngành chăn nuôi...........................................................................................................................5 Ngành thủy sản..............................................................................................................................7 Ngành trồng trọt......................................................................................................................... 10 Hành động của khu vực công đến nay.................................................................................... 15 Định hướng tiếp theo............................................................................... 21 Các tài liệu tham khảo..................................................................................................................... 23 ii Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt Danh sách các hình Hình 1.  Cung cấp lương thực trong nước cho tất cả các sản phẩm động vật.........................2 Hình 2.  Tỷ lệ từ chối sản phẩm thực phẩm của Việt Nam, 2002–2010.............................. 10 Hình 3.  Các xu hướng trong sản xuất ngũ cốc, năng suất, và các khu vực thu hoạch, 1961–2013........................................................................................................... 11 Hình 4.  Phân bố kích cỡ đồng ruộng, 2001–2011.................................................................. 11 Hình 5.  Tỷ lệ sử dụng phân bón trên lúa ở một số nước châu Á, 2010–2011................... 12 Hình 6.  Phân tích phát thải GHG nông nghiệp ở Việt Nam, ước tính năm 2014........... 15 Hình 7.  Tăng lượng phát thải khí nhà kính nông nghiệp ở Việt Nam, 1994–2010........ 15 Hình 8.  Các biện pháp pháp lý chính liên quan đến chính sách nông nghiệp và môi trường kể từ 2004..................................................................................................... 17 Danh sách các bảng Bảng 1.  Từ chối các sản phẩm cá và thủy sản của Việt Nam từ các thị trường xuất khẩu chính, 2002–2010.................................................................................................. 10 CÁC TỪ VIẾT TẮT ASC Hội đồng quản lý nuôi trồng thuỷ sản Sở NN&PTNT Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp GAPs Các thực hành nông nghiệp tốt GlobalG.A.P. Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu TCTK Tổng cục Thống kê Bộ NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn QCVN Quy chuẩn kỹ thuật VietGAP Thực hành nông nghiệp (và ngư nghiệp) tốt của Việt Nam iv Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt LỜI TỰA Từ tháng 7 năm 2015 đến tháng 12 năm 2016, Ngân hàng Thế giới đã thực hiện nghiên cứu khu vực về ô nhiễm nông nghiệp ở Đông Á, tập trung vào Trung Quốc, Việt Nam và Philippines, hợp tác với Bộ Nông nghiệp của mỗi nước. Nỗ lực này nhằm mục đích cung cấp một cái nhìn khái quát về ô nhiễm nông nghiệp gắn liền với nông nghiệp ở cấp độ khu vực và quốc gia: tầm quan trọng, tác động và các động lực thúc đẩy, và những hoạt động gì đang được thực hiện. Nó cũng tìm cách vạch ra những cách tiếp cận tiềm năng để giải quyết những vấn đề này trong tương lai. Nghiên cứu xem xét sự chuyển đổi cơ cấu của ngành nông nghiệp và sự phát triển của sản xuất nông nghiệp đang tạo ra các vấn đề ô nhiễm nông nghiệp và các cơ hội giảm thiểu. Nó cũng xác định những lỗ hổng về kiến thức, chỉ ra các hướng nghiên cứu trong tương lai. Các Bộ Nông nghiệp và Môi trường là đối tượng đầu tiên của nghiên cứu. Nghiên cứu cũng nhằm mục đích dùng cho các tổ chức phát triển, các hiệp hội ngành nghề, và các đối tượng khác quan tâm đến nông nghiệp bền vững và sức khoẻ và bảo vệ môi trường. "Nghiên cứu" là tổng thể của công trình và bao gồm nhiều thành phần, bao gồm tổng quan quốc gia về ô nhiễm nông nghiệp cho ba quốc gia trọng điểm, các báo cáo làm việc chuyên đề, và một báo cáo tổng thể. Báo cáo này tương ứng với tổng quan quốc gia về ô nhiễm nông nghiệp ở Việt Nam, và đặc biệt là báo cáo tóm tắt 3 tài liệu làm việc về trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Tổng quan bao gồm ô nhiễm nước, đất và không khí trực tiếp liên quan đến các hoạt động và quyết định được thực hiện ở cấp nông trại hoặc tương đương (ví dụ ở cấp ao trong trường hợp nuôi trồng thủy sản). Nó đặc biệt xem xét (a) việc sử dụng phân bón; (B) việc sử dụng thuốc trừ sâu; (C) các hoạt động quản lý đất đai khác (bao gồm việc sử dụng nhựa, ni lông, sự xâm nhập của các loài xâm lấn, thủy lợi, và các biện pháp chuẩn bị đất); (D) đốt chất thải nông nghiệp nông nghiệp; (E) quản lý chất thải động vật (đất và các loài thủy sản); Và (f ) việc sử dụng chất bổ sung thức ăn, bao gồm kháng sinh, hormone, và kim loại nặng trong nông nghiệp (đất và nước). Tác động môi trường liên quan đến thay đổi sử dụng đất vượt quá phạm vi nghiên cứu. Các tuyên bố đưa ra trong báo cáo tổng quan quốc gia này dựa trên các tài liệu hiện có cũng như các nguồn số liệu quốc gia và quốc tế. Bản báo cáo này đã được thông báo cho các bên liên quan đại diện cho các cơ quan chính phủ, các cơ quan phi chính phủ và các viện nghiên cứu, và đã được thảo luận tại hội thảo tham vấn các bên liên quan tại Hà Nội vào tháng 12 năm 2016. Báo cáo được hoàn thiện bằng cách củng cố và giải quyết các ý kiến từ các bên liên quan. Báo cáo này do Emilie Cassou viết, dựa trên các báo cáo cơ bản về tình hình ô nhiễm nông nghiệp của Việt Nam do Đinh Xuân Tùng (về ô nhiễm chăn nuôi), Nguyễn Hồng Tín (về ô nhiễm trồng trọt), Nguyễn Văn Công (về ô nhiễm thủy sản) và Trần Đại Nghĩa (Về Lời tựa v chính sách nông nghiệp-môi trường), và với sự đóng góp bằng văn bản của Steven Jaffee, Jiang Ru, và Cao Thăng Bình. Báo cáo về ô nhiễm chăn nuôi, cây trồng và ô nhiễm thủy sản hiện có trên mạng, cùng với một loạt các chính sách (biện pháp pháp lý) nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm nông nghiệp. Nghiên cứu này đã được thực hiện với sự tài trợ của Quỹ Ủy thác Tốc độ Phát triển Cơ sở Hạ tầng Đông Á và Thái Bình Dương do Australia tài trợ và do Ngân hàng Thế giới quản lý. GIỚI THIỆU Nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc trong 20 năm qua. Hoạt động mạnh mẽ của ngành đã giúp Việt Nam trở thành một trong 5 nhà xuất khẩu hàng đầu của khoảng 6 mặt hàng nông nghiệp, góp phần giảm nghèo, ổn định xã hội và cải thiện đáng kể an ninh lương thực. Tuy nhiên, hiện nay, nông nghiệp Việt Nam đang hướng tới những hạn chế của một mô hình tăng trưởng bắt nguồn từ việc tăng cường các hệ thống sản xuất, bao gồm việc sử dụng lao động, hóa chất và tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn hiệu quả và tăng thêm giá trị. Tăng trưởng nông nghiệp đang giảm dần và khả năng cạnh tranh của Việt Nam với vai trò là nhà cung cấp hàng hoá rời rạc, không có sự khác biệt đang là những dấu hiệu cảnh báo khiến ngành nông nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh về lao động, đất đai và các nguồn lực khác.1 Mối quan tâm về môi trường do thâm canh cũng bắt đầu ảnh hưởng xấu đến năng suất và vị thế hàng hoá của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Nếu muốn hoàn thành những tham vọng của mình và vẫn là một động lực phát triển kinh tế, nền nông nghiệp của Việt Nam sẽ cần phải bắt đầu sản xuất "nhiều hơn từ ít hơn.”2 Về vấn đề này, giải quyết vấn đề ô nhiễm nông nghiệp là thách thức chính đối với Việt Nam. Ô nhiễm đã bắt đầu ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên của riêng ngành, có khả năng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và năng suất của đất, hiệu quả của các hóa chất trong việc chống lại côn trùng và bệnh tật, sức khoẻ của nông dân và năng suất, sức khoẻ môi trường và an toàn thực phẩm.3 Trong khi đó, việc sử dụng lãng phí các đầu vào khiến giảm lợi nhuận của trang trại. Bằng chứng khoa học về mức độ và tác động của ô nhiễm nông nghiệp ở Việt Nam vẫn còn hạn chế, nhưng hiện đang dần xuất hiện rõ hơn. Trong khi đó, dân số nói chung đã ngày càng nhận thức được những vấn đề sức khoẻ con người và môi trường mà ô nhiễm nông nghiệp đang tạo ra. Việc tăng cường bằng chứng và mối quan tâm của công chúng về ô nhiễm đã dẫn đến việc chính phủ Việt Nam chấp nhận một viễn ảnh mới và cần phải đưa ra các biện pháp để giải quyết vấn đề. Ở cấp lập kế hoạch chiến lược, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN&PTNT), thông qua Kế hoạch Tái cơ cấu Nông nghiệp năm 2013, cần phải giảm phát thải và tác động môi trường của ngành và vạch ra một số mục tiêu cụ thể. Kể từ đó, nhiều bộ luật về nông nghiệp và môi trường đã được các bộ khác nhau chấp nhận mặc dù việc thực thi vẫn ở giai đoạn đầu và không đồng đều về mặt địa lý. 1 Xem Jaffee và các cộng sự. 2016. 2 Đó là tạo ra nhiều giá trị kinh tế hơn và phúc lợi của người tiêu dùng và nông dân, trong khi sử dụng nguyên liệu đầu vào ít hơn và nguồn nhân lực và tự nhiên và giảm bớt dấu ấn môi trường của ngành ( Jaffee và các cộng sự. 2016). 3 Xem World Bank. 2016. 2 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt Trong quá khứ, trong nhiều thập kỷ qua, hiệu suất môi sản phẩm động vật trên thế giới (xem Hình 1) và đáp ứng trường của ngành nông nghiệp đã phụ thuộc vào việc của ngành đối với nhu cầu đang gia tăng đang gây ra vấn đề mở rộng sản xuất nông nghiệp. Và khi mối quan tâm về ô nhiễm đang gia tăng. Ô nhiễm từ khu vực này đang mở môi trường đã được nâng lên, chủ yếu là do lấn chiếm rừng rộng không chỉ vì sự tăng trưởng của nó mà còn bởi sự thay bằng cách mở rộng nuôi trồng thuỷ sản và đất trồng trọt, đổi trong thực tiễn sản xuất và tổ chức công nghiệp mà sự đó là thay đổi sử dụng đất và ít bị ô nhiễm hơn liên quan tăng trưởng nhanh chóng đã gây ra. đến nông nghiệp. Ô nhiễm nông nghiệp nhìn chung ít nhận được sự quan tâm, có lẽ do một phần là do sự phức Hình 1. Cung cấp lương thực trong nước cho tất cả các tạp của việc đo lường hiện tượng khuếch tán đa diện và sản phẩm động vật không gian. Sự khan hiếm dữ liệu thu thập ô nhiễm nông 2000 = 100 nghiệp đã làm hạn chế khả năng nghiên cứu của các nhà 250 – nghiên cứu về những ảnh hưởng của nó đối với sức khoẻ 230 – 210 – con người và động vật, đa dạng sinh học, khả năng sinh lời 190 – của nông nghiệp và các ngành công nghiệp khác và tổng 170 – giá trị xã hội của sản xuất nông nghiệp. 150 – 130 – Nghiên cứu dựa trên báo cáo tóm tắt này thể hiện nỗ lực 110 – lần đầu tiên để thu thập các bằng chứng hiện có về bản 90 – 70 – chất và mức độ ô nhiễm nông nghiệp ở Việt Nam, nhìn 50 – vào ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và cây trồng. 2000 2002 2004 2006 2008 2010 Đây cũng là một nỗ lực để làm sáng tỏ các tác động kinh Cung cấp lương thực trong nước = sản xuất + nhập khẩu- xuất khẩu + Thay đổi thị phần (giảm hoặc tăng) tế xã hội và động lực của ô nhiễm nông nghiệp, bao gồm ▬▬VNM ▬▬IDN ▬▬CHN ▬▬KHM ▬▬BRA ▬▬PHL ▬▬MYS những thiếu sót của các chính sách và chương trình hiện ▬▬KOR ▬▬USA ▬▬EU ▬▬THA ▬▬JPN ▬▬World có để quản lý vấn đề này. Nguồn: Dựa trên bảng cân đối lương thực FAOSTAT. Lợn và gia cầm là những con vật nuôi lớn nhất và phát triển nhanh nhất và tạo ra chất thải tập trung nhất và Trọng tâm hàng hóa tập trung nhất. Các doanh nghiệp nuôi các động vật này đã đi vào con đường công nghiệp hóa, một sự chuyển đổi Báo cáo tổng quan này tập trung vào các ảnh hưởng ô đặc trưng bởi sự gia tăng thông tin và sự phụ thuộc nhiều nhiễm của các hệ thống sản xuất cho một tập hợp các hơn vào nguồn thức ăn thương mại và dược phẩm. Mặc dù mặt hàng nông sản: lợn và các sản phẩm gia cầm, và ở một số điều này đã đi cùng với sự xuất hiện của các hoạt mức độ thấp hơn các sản phẩm gia súc; Nuôi cá tra và động quy mô lớn (vào năm 2015, sản xuất công nghiệp và tôm; Và gạo, ngô và cà phê. Sự lựa chọn này phản ánh công nghiệp chiếm 64% tổng sản lượng ngành chăn nuôi tầm quan trọng của các mặt hàng này trong cả về sự đóng [Nguyen DV 2015]), công nghiệp hóa cũng phát triển góp về kinh tế và ô nhiễm, và trong một số trường hợp, quỹ trong Các cụm trang trại chăn nuôi nhỏ được hình thành đạo công nghiệp có thể dẫn tới mức ô nhiễm cao hơn trong xung quanh các trung tâm tiêu thụ dân cư như Hà Nội và tương lai. Việc lựa chọn cũng có tính đến các chương trình thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay, cả hoạt động chăn hiện hành của chính phủ đang được Ngân hàng Thế giới nuôi lớn và nhỏ đều gây ra vấn đề ô nhiễm đáng báo động. hỗ trợ, và do đó, các cơ hội để ngay lập tức tăng cường các Các vùng tạo ra chất thải động vật nhiều nhất là đồng bằng nỗ lực thúc đẩy thâm canh nông nghiệp bền vững. sông Hồng, Đông Nam Bộ, và đồng bằng sông Cửu Long. Nông nghiệp chăn nuôi (trên mặt đất và dưới nước) được Hầu hết gia súc và trâu vẫn tiếp tục được nuôi trong các lựa chọn bởi vì nó nằm trong số các tiểu ngành kinh tế hệ thống rộng, mật độ thấp, và chất thải từ những hoạt phát triển nhanh nhất nước và là một trong những nhân động chăn nuôi này chưa gây ra những vấn đề môi trường tố đóng góp nhiều nhất cho ô nhiễm môi trường. Việt nghiêm trọng. Mặc dù thực tế là vào năm 2014, hơn 80 Nam đang trải qua sự tăng trưởng nhanh nhất về tiêu thụ phần trăm bò chỉ sống ở 6 trong 63 tỉnh và thành phố của Giới thiệu 3 Việt Nam.4 Tuy nhiên, tình hình này đang thay đổi với sự Cà phê là một trong những cây trồng khiến Việt Nam nổi lên của các hoạt động kinh doanh sữa và thịt bò quy hiện được coi như một nhà cung cấp chính toàn cầu. mô lớn. Phân chuồng của một số trang trại chăn nuôi bò Việt Nam đã trở thành nhà sản xuất cà phê thế giới vào sữa thương mại được thành lập gần các thành phố lớn và cuối những năm 1990 trở thành nhà sản xuất lớn thứ hai trung bình như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Vinh thế giới sau một thập niên sau đó (dựa trên dữ liệu của ở Nghệ An (Duyên hải Nam Trung Bộ) đã vượt quá khả FAOSTAT). Hầu như toàn bộ cây trồng được trồng ở năng chứa chất dinh dưỡng của đất (Lê 2012, Duteurtre vùng Tây Nguyên. Việc mở rộng và tăng cường của Cà phê và các cộng sự. Năm 2015), và các quy định về bảo vệ nước đã diễn ra một cách không kiểm soát được, và chi phí môi ngầm và nước mặt khỏi ô nhiễm ít được áp dụng. trường bao gồm phá rừng, suy thoái đất, và sự cạn kiệt của nước ngầm cũng như ô nhiễm nước và đất. Liên quan đến thủy sản, nuôi trồng thuỷ sản không chỉ là con đường tăng trưởng dốc hơn là đánh bắt cá mà còn Nghiên cứu này củng cố cho nghiên cứu này chủ yếu tập là ngành gây ô nhiễm lớn hơn của hai tiểu ngành thủy trung vào ô nhiễm phát sinh từ  (a) thực hành chăn nuôi sản do sử dụng một lượng lớn thức ăn và dược phẩm. và bổ sung thức ăn, (b) xử lý chất thải động vật và quản lý Trong nuôi trồng thủy sản, cá tra / basa và tôm đều chiếm nước thải, (c) sử dụng phân bón, (d) sử dụng thuốc trừ sâu, không gian và môi trường lớn; Khu vực nuôi trồng (đặc và (e) Dư lượng. biệt là tôm 5) Và cường độ của cả hai đều tăng lên đáng kể trong 10 đến 15 năm qua. Vùng chính về sản lượng nuôi trồng thuỷ sản là đồng bằng sông Cửu Long, chiếm hơn 70% diện tích nuôi và sản lượng trong năm 2013 (dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê). Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung chiếm vị trí thứ hai và thứ ba. Gạo là mặt hàng lương thực hàng đầu của Việt Nam và tiếp tục chiếm phần lớn diện tích trồng trọt. Đồng bằng sông Cửu Long - nơi có một nửa sản lượng gạo quốc gia và 90% xuất khẩu gạo xuất phát6—là vựa lúa của cả nước. Đồng bằng sông Hồng là nơi đứng thứ hai về sản xuất lúa gạo (và đang giảm). Sản lượng lúa gạo chiếm tỷ trọng lớn nhất trong việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu của Việt Nam, trong đó cà phê và ngô xếp thứ hai và thứ ba về sử dụng các đầu vào này (dựa trên số liệu Tổng cục Thống ke (TCTK). Ngô đứng thứ hai về diện tích trồng trotj ở Việt Nam. Trong khi trước đây, Ngô được trồng chủ yếu cho thực phẩm ở các vùng cao, hơn 80% sản lượng ngô của cả nước được ước tính sử dụng cho thức ăn gia súc (cho cả hoạt động chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản) (Nguyễn T. H. 2017). Sản xuất ngô xuất hiện trên cả nước. Vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Tây Nguyên chiếm khoảng 60% tổng sản lượng, và sản xuất thâm canh nhất xảy ra ở Tây Nguyên. 4 Hanoi, Son La, Nghe An, Lam Dong, TP Ho Chi Minh, và Long An. 5 Nuôi tôm chiếm nhiều không gian hơn so với cá tra (hơn 100 lần), nhưng cá tra được sản xuất với khối lượng cao hơn (Kam và các cộng sự. 2012). 6 http://www.pecad.fas.usda.gov/highlights/2012/12/Vietnam/. CÁC PHÁT HIỆN Ngành chăn nuôi Sản xuất chăn nuôi không chỉ phát triển mà còn tập trung vào công nghiệp hóa và không gian-thường gặp rắc rối gần với các khu vực đông dân - thậm chí cả với những hộ chăn nuôi nhỏ. Chính phủ đang cố gắng giải quyết tình trạng này bằng cách khuyến khích hợp nhất và phân bố lại không gian, tuy nhiên đã trở thành giải pháp không phù hợp giữa năng lực của các nhà sản xuất để đầu tư hoặc điều phối kiểm soát ô nhiễm và mặt khác là các phương pháp sản xuất công nghiệp nguy hiểm với môi trường đang thống trị ngành. Điều này nằm trong bối cảnh các ưu đãi kinh tế yếu và áp lực hạn chế trong việc tuân thủ các quy định về môi trường. Việc tăng cường chăn nuôi gia súc đã không đạt được tiềm năng của nó để giảm bớt áp lực lên môi trường bằng cách mang lại sự chuyên nghiệp hoá và đạt được hiệu quả. Thay vào đó, nó đã làm tăng thêm các dòng chất thải tập trung không gian. Và mặc dù điều này có thể một phần do sự phổ biến của nông nghiệp quy mô nhỏ, việc chuyển đổi sang chăn nuôi thương mại quy mô lớn có thể không giải quyết được vấn đề ô nhiễm trong ngành. Mặc dù các trang trại quy mô lớn đầu tư nhiều hơn vào xử lý chất thải hơn các trang trại quy mô nhỏ, theo tỷ lệ, những nỗ lực của các trang trại quy mô lớn, bao gồm các trang trại gần Hà Nội và Thái Bình ở đồng bằng sông Hồng, thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng Nai ở đồng bằng sông Cửu Long thường thiếu những gì cần thiết để quản lý khối lượng lớn chất thải tập trung từ các trang trại này. Vấn đề ô nhiễm gia súc được thấy rõ ràng nhất trong ngành chăn nuôi lợn. Lợn gây ra chất thải nhiều nhất ở cả tuyệt đối và tương đối (mỗi con vật). Về mặt địa lý, vấn đề ô nhiễm gia súc được chú ý nhiều nhất ở các tỉnh/thành như Thái Bình và Hà Nội ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng Nai ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ước tính 80 triệu tấn chất thải gia súc phát sinh mỗi năm là các chất dinh dưỡng, chất gây bệnh và các hợp chất dễ bay hơi làm ảnh hưởng đến chất lượng nước và không khí (dựa trên DLP-MARD 2015). Ví dụ, trong chăn nuôi lợn, khoảng 70- và làm hư hại đất  90% lượng nitơ, khoáng chất (phốt pho, kali, magiê và các loại khác), và các kim loại nặng chứa trong thức ăn được cho là thải ra môi trường (Định 2017). Mức ô nhiễm nước bẩn do coliform do các trang trại chăn nuôi nhỏ cao gấp 278 lần so với mức cho phép, trong khi chăn nuôi thương phẩm cao gấp 630 lần so với mức cho phép trong một nghiên cứu (Phùng và cộng sự 2009). Nồng độ ammonia trong khí thải từ các trang trại lợn ở khu vực 6 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt phía Bắc đã cao hơn mức độ cho phép từ 7 đến 18 lần, và dụng một cách có hệ thống trong chăn nuôi lợn và gia hydro sulfide cao gấp 5 đến 50 lần (Vũ 2014). cầm tăng cường.8 Mặc dù bằng chứng cụ thể của Việt Nam còn hạn chế về vấn đề này, việc tiếp xúc lâu dài với các Mặc dù các luật và các quy định đã được thông qua để dược phẩm này được biết là có hại cho sức khoẻ, trong khi ngăn ngừa tình trạng này, khoảng 36 phần trăm7 chất đó các chất chống vi khuẩn trong môi trường và trong sinh thải gia súc được ước tính đổ vào môi trường không vật lại tăng cường sự đề kháng của vi khuẩn đối với các loại được xử lý. Một phần là do thiếu áp lực về việc tuân thủ thuốc cứu sống con người và Động vật. Một nghiên cứu các quy định đối với nông dân tham gia vào hoạt động này, cho thấy rằng 33 đến 47% E. coli phân lập từ colibacillosis và sự không hấp dẫn về mặt kinh tế mang lại từ việc xử lý ở lợn kháng kháng sinh như enrofloxacin, ciprofloxacin, và tái chế chất thải trong nhiều hoàn cảnh (so với bán phá norfloxacin, và erythromycin (Khanh 2010). Một nghiên giá), hiện tượng này cũng phản ánh những hạn chế về vật cứu khác cho thấy 80 phần trăm E. coli bị cô lập và 77 chất và đầu tư. Các trang trại nhỏ - có lẽ vì họ ít có khả phần trăm Salmonella spp. kháng với ít nhất một loại năng thu hút sự giám sát của các quy định và cũng ít có cơ kháng sinh, và trên 60% các vi khuẩn này có khả năng đề hội tiếp cận với công nghệ và tài chính - sẽ lấy đi phần lớn kháng với hai loại kháng sinh (Phương và cộng sự, 2008 chất thải của họ so với các đối tác thương mại lớn của họ tại Định 2017). Tuy nhiên, một nghiên cứu khác - thời (ước tính là 40% so với 16%). gian này trên E. coli từ mẫu phân của trẻ em sống ở một vùng nông thôn bên ngoài Hà Nội - cho thấy 60 phần trăm Trong khi đó, mặc dù phần lớn (xấp xỉ 64 phần trăm) chủng vi khuẩn kháng với ba hoặc nhiều kháng sinh (Dyar chất thải gia súc cũng được xử lý qua một số hình thức và cộng sự, 2012). Nhận thức được mối đe dọa này, Bộ nhất định ở Việt Nam, nhưng phần lớn vẫn bị xử lý NN & PTNT (tính đến năm 2016) đã khởi xướng hành không đầy đủ. Ví dụ, các chất phân huỷ sinh học đã xâm động điều tiết để giảm việc sử dụng thuốc kháng sinh tăng nhập vào ngành công nghiệp ở mức độ lớn ở Việt Nam, do trưởng trong thức ăn.9 trợ cấp của chính phủ, và đang giúp làm giảm chất ô nhiễm hữu cơ và khí hậu từ chất thải động vật. Tuy nhiên, nước Theo Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí thải từ các hệ thống này thường không qua xử lý, do đó các Minh, nước thải từ các trang trại chăn nuôi là một trong chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, thuốc men và các chất phụ những nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước gia thức ăn như kim loại nặng vào đường thủy bị thải môi uống gây ảnh hưởng đến người dân thành thị. Sau khi trường. Và trong khi việc xử lý chất thải gia súc cho đất xả ra kênh rạch, nước thải chảy vào sông Sài Gòn, đây là như phân bón giảm thiểu các vấn đề ô nhiễm nhất định nguồn cung cấp nước sinh hoạt và nước uống chính cho bằng cách phân tán phân chuồng (làm gián đoạn không thành phố. Chất thải chăn nuôi đã được đưa vào danh sách gian các chất dinh dưỡng), xây dựng chất hữu cơ trong đất các nguồn ô nhiễm đòi hỏi phải có sự kiểm soát chặt chẽ giúp duy trì chất dinh dưỡng và giảm phát thải khí mê tan của chính quyền để bảo vệ chất lượng nước trong hệ thống do phân hủy, nếu thường xuyên bị áp dụng quá mức sẽ gây sông Đồng Nai - Sài Gòn. hại đến độ màu mỡ của đất (axit hóa, mất cân bằng vi sinh, tích tụ kim loại nặng) và tăng nguy cơ ô nhiễm cây trồng Mặc dù có một số lý do đáng lo ngại nhưng rất ít nghiên bằng các mầm bệnh. Điều này làm tăng mối quan ngại về cứu kiểm tra nước, sức khoẻ và các tác động khác của việc sử dụng rộng rãi phân gà làm phân bón (khoảng 75% chất thải vật nuôi, để lại vấn đề quan trọng này cho các được sử dụng theo cách này [Dinh 2017]), chất thải gia phương tiện truyền thông phải ghi chép. Thông thường, cầm đứng thứ nhì so với lợn. các báo cáo được thúc đẩy bởi khiếu nại của người dân về mùi hôi của các trang trại chăn nuôi gia súc, chứ không Cả hai loại chất thải gia súc đã xử lý và chưa được xử lý phải các chất ô nhiễm nguy hại hơn, nhưng ít dễ nhìn thấy cũng lan truyền các loại dược phẩm hiện đang được sử 7 Ước tính, Dinh 2017. 8 Các nhà máy xử lý ở Hoa Kỳ đã được tìm thấy để loại bỏ chỉ khoảng một nửa số thuốc có trong nước thải (Arvai và các cộng sự. 2014). 9 http://law.omard.gov.vn/LinkClick.aspx?fileticket=YJI55G8ZKWE%3d&tabid=40&mid=385 (Tiếng Việt); http://gain.fas.usda.gov/Recent%20GAIN%20 Publications/MARD%20phases%20out%20of%20growth%20promotion%20usage%20of%20antibiotics%20in%20feed_Hanoi_Vietnam_7-6-2016.pdf (Tóm tắt tiếng Anh) Các phát hiện 7 hơn như chất dinh dưỡng, kim loại nặng, vi khuẩn và vi Ngành thủy sản rút. Sự phát triển nhanh chóng của nuôi trồng thủy sản ở Có bằng chứng sơ bộ rằng việc duy trì các điều kiện vệ Việt Nam trong 15 năm qua - đặc biệt là sự lan rộng của sinh kém khiến vấn đề ô nhiễm trở nên tồi tệ hơn cũng cá tra / basa thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long - đã có hại cho năng suất nông nghiệp. Điều kiện vệ sinh kém làm gia tăng các vấn đề ô nhiễm nguồn nước, vượt qua làm cho những trang trại dễ bị tổn thất năng suất hơn do khả năng quản lý các yếu tố bên ngoài của ngành. Giá tự nhiễm bẩn. Bằng chứng là sơ bộ, tuy nhiên các can thiệp trị nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là nuôi cá tra / basa nước cấp dự án để cải thiện điều kiện vệ sinh và thực tiễn quản ngọt và tôm nước lợ (theo sản lượng10), tăng gấp sáu lần lý chất thải của các trang trại chăn nuôi đã đạt được kết quả giữa năm 1995 và năm 2014, trong khi đó của tất cả các rõ ràng về năng suất. Ví dụ, bằng cách giới thiệu phương nghề cá (đánh bắt và nuôi trồng) tăng gấp 2,5 lần (dựa trên pháp chăn nuôi tốt, Dự án Tăng cường Cạnh tranh chăn dữ liệu của TCTK). Được nhà nước khuyến khích mạnh nuôi và An toàn Thực phẩm của Ngân hàng Thế giới đã mẽ, sự mở rộng của ngành công nghiệp này là có thể thông giảm tỷ lệ tử vong của lợn từ 15 đến 11%, và tỷ lệ tử vong qua việc chuyển đổi quy mô lớn các hệ sinh thái tự nhiên, ở gia cầm từ 41 đến 33% ở các khu vực mục tiêu. Nó cũng bao gồm rừng ngập mặn,11 Và thông qua tăng cường. Từ làm giảm thời gian vỗ béo từ 136 đến 118 ngày đối với lợn năm 1995 đến năm 2014, sản lượng nuôi trồng thủy sản và từ 66 đến 58 ngày đối với gia cầm (giảm lượng thức ăn đã tăng gần gấp 8 lần (tỷ trọng), trong khi diện tích nuôi và các đầu vào khác cần thiết để nuôi động vật nuôi, cùng trồng thủy sản tăng hơn gấp đôi.12 Tính đến năm 2014, với lượng chất thải phát sinh) (LIFSAP 2015). đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 5.500 ha nuôi cá tra và 604.000 ha nuôi tôm thâm canh (Phương và cộng sự, Việc chăn nuôi gia súc là một trong những nguyên nhân 2015 tại Nguyễn CV 2017), và như đã nói, chiếm 70% chính gây ô nhiễm khí hậu ở Việt Nam và quản lý nguồn tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản của cả nước (về diện phát thải khí nhà kính đang phát triển nhanh nhất, mặc tích và tỷ trọng).13 Hầu hết các hoạt động nuôi là các loại dù năng lượng và sản xuất lúa vẫn là nguồn lớn hơn (  xem nuôi thâm canh và bán thâm canh, và vấn đề ô nhiễm mà Hình 6 và Hình 7). Sự phân hủy các chất thải động vật chúng gây ra là do sử dụng quá nhiều và không đúng đầu làm tăng phát thải khí mê-tan và nitơ oxit, cả khí nhà kính vào bao gồm thức ăn, hóa chất xử lý nước, thuốc kháng mạnh mẽ, đặc biệt khi nồng độ chất thải dẫn đến phân sinh và các thuốc khác và để quản lý Nước thải. Các chất hủy K an khí của chúng. Dấu hiệu đối với khí hậu của gây ô nhiễm này bắt nguồn từ một loạt các hoạt động sản tiểu ngành lớn hơn nhiều, hơn nữa, khi lượng khí thải xuất nuôi trồng thuỷ sản, hoặc "các hệ thống con", bao gồm liên quan đến chứng đầy hơi của động vật nhai lại và hô xây dựng ao, xử lý ao, lượng nước, thả giống, nuôi dưỡng, hấp của tất cả các loài vật được chăn nuôi. Mức thải nông trao đổi nước, xả bùn, thu hoạch và rỗng nước ao (Anh và nghiệp và lượng phân bón liên quan đến sản xuất những cộng sự 2010a và 2010b). cây trồng được dùng làm thức ăn cho động vật chăn nuôi công nghiệp cũng có thể do chăn nuôi, mặc dù điều này Ô nhiễm nguồn gốc nuôi trồng thuỷ sản bắt nguồn chủ không xuất hiện trong các biểu đồ dưới đây (xem thảo luận yếu từ việc xả nước thải không qua xử lý vào các nguồn về ngô dưới đây). nước địa phương. Đến năm 2014, các trang trại nuôi cá tra được ước tính đã tạo ra hơn 10 tỷ mét khối nước thải có 51.336 tấn nitơ và 16.070 tấn phốt pho (Nguyễn Cố V. 2017). Phần lớn các chất gây ô nhiễm này được thải ra các kênh rạch địa phương và cuối cùng đến hệ thống sông Mekong đồng bằng sông Mekong, mà không qua xử 10 Nuôi tôm chiếm diện tích lớn hơn nhiều so với nuôi cá Tra / basa. Hơn 70 phần trăm diện tích nuôi trồng thuỷ sản đều do các trang trại nuôi tôm. Tuy nhiên, cá tra chiếm khoảng một nửa khối lượng nuôi trồng thủy sản theo trọng lượng (http://pubs.iclarm.net/resource_centre/WF_2776.pdf ). 11 Theo số liệu từ Sa và Hạnh (2008), tổng diện tích rừng ngập mặn ở ĐBSCL năm 1983 là khoảng 126.000 ha vào năm 1983 (chủ yếu là rừng tự nhiên), 93.000 ha năm 1988, 78.000 ha năm 1992, và 27.000 ha năm 1999. Kết quả này Từ khai thác gỗ không kiểm soát và mở rộng diện tích nuôi tôm và nuôi. 12 Dựa vào dữ liệu của TCTK về sản xuất cá và tôm trong 2014. 13 Dựa vào dữ liệu của TCTK về sản xuất cá và tôm trong 2014. 8 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt lý trước, mặc dù hầu hết các hộ gia đình ở nông thôn đều nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long là rất tốn kém, phụ thuộc vào nước mặt để sử dụng làm nước sinh hoạt nông dân cố gắng giảm thiểu diện tích dành cho các hệ và các mục đích sử dụng khác. Ước lượng lượng nước thải thống xử lý chất thải như ao lắng và ao xử lý nước thải. liên quan đến nuôi tôm nhỏ hơn. Sản xuất tôm thâm canh Trong khi đó, mặc dù đã có những quy định để hạn chế ô đã tạo ra khoảng 4,4 tỷ mét khối nước thải, chứa 25.344 nhiễm nước nhưng xử lý nước thải được nhiều nông dân tấn nitơ và 6.336 tấn phốt pho (Nguyễn Cốc 2017). Ước coi là một "hoạt động khuyến khích" chứ không phải là 75% số lượng này được thải vào các con sông địa phương ở một quy trình bắt buộc. Trên thực tế, các quy định của Bộ vùng duyên hải đồng bằng sông Cửu Long (Nguyễn Cố V. NN & PTNT và Bộ TN & MT về xử lý nước thải chưa 2017). Sắp tới, sự tăng trưởng liên tục trong sản xuất nuôi được thực thi nghiêm túc. Tính đa dạng của các tiêu chuẩn trồng thuỷ sản có thể làm tăng tải ô nhiễm nếu những cải do các cơ quan quản lý khác nhau gây ra cũng đã được báo tiến lớn về công nghệ và thực tiễn không được thực hiện. cáo là nguyên nhân gây nhầm lẫn và thậm chí không tuân Nếu Việt Nam đạt được các mục tiêu sản xuất đầy tham thủ. Các khuyến khích thị trường dường như đã làm được vọng mà kế hoạch tổng thể về thủy sản năm 2013 đưa ra nhiều hơn để khuyến khích nông dân, và những người tìm cho năm 2020 thì chỉ riêng sản lượng cá tra sẽ tăng hơn kiếm chứng nhận theo VietGAP, GLOBALG.A.P, ASC, 60% so với năm 2014, tức là khoảng 1,8 triệu tấn ở một và nhãn sinh thái dường như chứng minh được việc quản phần lớn vùng đồng bằng sông Cửu Long. lý môi trường tốt hơn. Để bảo vệ cá khỏi các chất gây ô nhiễm trong ao, người Trên thực tế, nhu cầu của thị trường xuất khẩu dường nuôi trồng thủy sản thường xuyên trao đổi nước (hàng như đã được cải thiện trong quản lý môi trường từ năm ngày), xả nước từ ao và nạp nước ngọt. Kết quả là hầu 2010. Đặc biệt, các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan hết các chất dinh dưỡng và các chất phụ gia được tìm có thẩm quyền tại các nước nhập khẩu đã định kỳ đưa ra thấy trong thức ăn đang được giải phóng, trong hầu hết mối quan ngại về môi trường với chuỗi cung ứng cá tra các trường hợp mà không được xử lý, gây ra ô nhiễm nước Việt Nam (liên quan đến quản lý chất dinh dưỡng, Thuốc mặt. Trong một số trường hợp, trầm tích được thu thập bảo vệ thực vật, và bảo vệ các loài hoang dã), tình huống có trong ao lắng, nhưng thậm chí sau đó, bùn tích tụ trong khả năng gây hại cho xuất khẩu cá tra vào các thời điểm.14 ao thường được thải ra môi trường mà không cần xử lý Mặc dù các tuyên bố về sự bền vững của sản xuất cá tra thêm (mặc dù chúng thường thích hợp để sử dụng làm đang còn gây tranh cãi - và trong một số trường hợp được phân bón). Những thực tiễn này vẫn tiếp tục, mặc dù, từ điều chỉnh dựa trên số liệu không đầy đủ-những cuộc góc độ kỹ thuật, các giải pháp khả thi có sẵn. Điều này đã tranh luận dường như đã kích thích nỗ lực để cải thiện cả được chứng minh ở các trang trại nuôi thâm canh đã áp quy định môi trường cũng như quản lý môi trường. Kết dụng (chủ yếu là các hệ thống tuần hoàn nước tuần hoàn quả là, một số lượng ngày càng tăng các trang trại nuôi cá kín). Những hệ thống này yêu cầu nông dân chỉ phải bổ tra đã cải thiện nước thải của họ và các cách quản lý khác sung nước bị mất do bốc hơi (hàng tuần-hàng tháng). Mặc để có thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu đòi hỏi phải dù những điều này có thể mang lại ý nghĩa kinh doanh chứng nhận theo các tiêu chuẩn như GLOBALG.A.P. vì chúng ngăn ngừa các bệnh xâm nhập bên ngoài, và họ và Hội đồng Quản lý Nuôi trồng Thủy sản (ASC). Tuy giúp các trang trại đáp ứng các tiêu chuẩn về hiệu suất môi nhiên, mặc dù các tiến bộ trong chuỗi giá trị cá tra thông trường của các thị trường yêu cầu, nhưng đòi hỏi mức đầu thường là giữa các trang trại tham gia dự án nâng cấp, các tư trước cao. tiêu chuẩn môi trường không rõ ràng - với các cơ quan khác nhau ban hành các tiêu chuẩn khác nhau (xem bên Một vài yếu tố khác giúp giải thích tại sao quản lý nước dưới) cùng với sự thiếu kiểm tra, khuyến khích về mặt kinh thải và bùn thải không hợp lý vẫn phổ biến rộng rãi tế, và năng lực không gian (đặc biệt là trong trường hợp các trong nuôi tôm và cá tra / basa. Ví dụ, vì đất phù hợp cho 14 Trong năm 2010, Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới đã nhanh chóng đưa cá tra Việt Nam vào danh sách các sản phẩm thủy sản đỏ để tránh trước khi đưa nó vào danh sách vàng sau khi thừa nhận đã đánh giá dựa trên số liệu không đầy đủ. Liên minh châu Âu (EU) và WWF sau đó đã hợp tác với Chính phủ Việt Nam để cải thiện khung pháp lý và hỗ trợ các nhà cung cấp cá tra trong việc tiến tới chứng nhận, trong số những thứ khác (Cosslett và Cosslett 2013). Những tranh cãi như vậy vẫn tiếp tục diễn ra, như năm 2017. Các nguồn khác: http://english.thesaigontimes.vn/14259/WWF-Vietnam-Remove-Vietnam-catfish-from-red-list. html; http://www.switch-asia.eu/projects/pangasius-supply-chain-in-vietnam/; https://www.undercurrentnews.com/2017/02/10/vietnams-pangasius-industry- decries-fake-news-around-food-safety-scare/; https://www.undercurrentnews.com/2017/02/01/carrefour-ceases-sales-of-pangasius-in-spain/. Các phát hiện 9 hộ sản xuất nhỏ) làm phổ biến rộng rãi các hoạt động nuôi lường tốt hơn. Theo Ủy ban sông Mê kông, hầu hết vùng trồng thuỷ sản gây ô nhiễm. nước đồng bằng sông Cửu Long vẫn đáp ứng được các hướng dẫn về chất lượng chất dinh dưỡng, chất thải hữu Trong thực tiễn "hiện trạng", nước và bùn thải được cơ và độ chua (theo Hướng dẫn bảo vệ sức khoẻ con người) thải ra mà không được xử lý nên vẫn còn chứa chất dinh (MRC 2014). Tuy nhiên, các phép đo này cũng chỉ ra rằng dưỡng, thuốc và hóa chất. Nuôi cá tra ở đồng bằng sông ô nhiễm nước là cấp tính ở một số khu vực nhất định và Cửu Long ngày nay có đặc điểm là mật độ thả cao và tỷ lệ các nghiên cứu khẳng định rằng một số vùng nước mặt bị cho ăn cao. Cần khoảng 2 đến 3 kg thức ăn cho mỗi pound "xuống cấp nghiêm trọng" (không phải là đặc trưng cho cá, và khoảng một nửa lượng thức ăn đó bị mất đi hòa vào nuôi trồng thủy sản) (Chea, Grenouillet, và Lek 2016). nước ao nuôi dưới dạng phân hay thức ăn (De Silva và cộng Tuy nhiên, những phép đo chất lượng nước này vẫn còn sự, 2010; Nguyễn C. V. 2017). Mức độ hiệu quả sử dụng hạn chế và chưa đầy đủ, và không nói rõ câu chuyện về thức ăn này phản ánh việc sử dụng rộng rãi các loại thức ăn tác động môi trường hoặc sức khoẻ con người và động vật thương phẩm chất lượng thấp, mặc dù thức ăn chăn nuôi nông nghiệp. Họ không cung cấp tài liệu nào về ô nhiễm chất lượng cao không loại trừ thiệt hại. Cả người nuôi nước bằng các chất hoá học và thuốc, thí dụ, hoặc mối liên tôm và cá tra đều báo cáo việc sử dụng có hệ thống các loại hệ về sinh thái và sức khoẻ. kháng sinh đa dạng (đặc biệt là enrofloxacin, amoxicillin, trimethoprim, và sulfamethoxazole), chất bổ sung (như Những phép đo này cũng không thể nắm bắt được một vitamin và các chất hỗ trợ tiêu hoá) và một loạt các chất số hình thức ô nhiễm khác. Ví dụ, nuôi trồng thuỷ sản hoá học (vôi, iodine, đồng sulfat, BKC, Muối, ivermectin, và nuôi tôm nói riêng đã đóng góp vào việc lấy đi nước praziquantel, clo, cloramin T, và Zeo-yuca trong trường ngầm ở mức không bền vững, dẫn đến lún đất và xâm nhập hợp cá tra, canxi hypochlorit, trichlorofon, formalin / mặn, đặc biệt là ở vùng duyên hải đồng bằng sông Cửu formaldehyde, kali permanganat, saponin, thiosulfat kali, Long (Erban, Gorelick, và Zebker 2014; Vương, Lâm, và benzalkonium clorua, iodophores, đồng sulfat, acid humic, Văn năm 2015). Việc sử dụng không bền vững nguồn tài Dichlorvos có độc tố cao và endosulfan trong trường hợp nguyên nước ngầm của nhiều người cũng gây ra rủi ro liên tôm) (Nguyễn, T. Q. và cộng sự, năm 2015, Tu và cộng sự, quan đến nước ngọt trong tương lai cho nuôi trồng thủy 2006). Mặc dù dichlorvos và endosulfan không nằm trong sản và các hoạt động khác. Một cách riêng biệt, việc đo số các hóa chất được sử dụng phổ biến nhất trong sản xuất lượng phát thải khí nhà kính từ nuôi trồng thủy sản vẫn tôm (ít hơn 4% số trang trại sử dụng chúng), nhưng cả hai còn ở giai đoạn đầu. chất này đều có tính độc hại cao và có vấn đề ngay cả với số lượng nhỏ. Endosulfan, đặc biệt, là một chất bảo vệ thực Các mối quan ngại về an toàn thực phẩm liên quan đến vật hữu cơ liên tục được liệt kê để loại bỏ theo Công ước ô nhiễm cũng rất tốn kém cho ngành công nghiệp do sản Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ15 và phẩm bị từ chối, và có thể là do doanh số bán hàng và đã bị cấm sử dụng ở Việt Nam (Hoi, Mol, và Oosterveer giá chiết khấu bị giảm - mặc dù ước tính của họ không và các cộng sự., 2013). Nhiều nghiên cứu đã xác nhận rằng có. Việc ô nhiễm các sản phẩm thủy sản gây ra vấn đề an các mầm bệnh tìm thấy trong các sản phẩm nuôi trồng toàn thực phẩm chỉ được hiểu một phần, tuy nhiên hình thủy sản và nước biển đã phát triển đề kháng với một hoặc ảnh của Việt Nam là nước xuất khẩu chất lượng có thể bị nhiều kháng sinh được sử dụng trong ngành (Thi, Dũng, ảnh hưởng bởi sự cố thị trường xuất khẩu. Xuất khẩu của và Hiệp 2014; Huỳnh, Trần và Nguyễn 2015). Việt Nam được kiểm soát chặt chẽ hơn nhiều so với các sản phẩm dành cho thị trường nội địa; Và từ chối thương Một số phép đo cho thấy ô nhiễm nước cấp tính, tổng mại có liên quan đến việc phát hiện mức độ cao của thuốc thể, vẫn là một hiện tượng cục bộ, nhưng cần phải đo thú y hoặc mầm bệnh khi bán hàng cho Nhật Bản, EU, 15 http://chm.pops.int/TheConvention/ThePOPs/ListingofPOPs. 10 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt Úc và Hoa Kỳ.16 Trên thực tế, giá trị cá Việt nam và việc bị quan ngại về an toàn thực phẩm đối với giá do xuất khẩu Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU và Australia từ chối các sản phẩm lương thực của Việt Nam đã không được nghiên cứu thực cá đã vượt qua bất kỳ quốc gia nào khác trong năm 2002- nghiệm. Trong khi đó, bởi vì chúng ít được giám sát, các 2010 (xem Bảng 1). Tỷ lệ từ chối lương thực của Việt Nam, sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản được bán trên thị trường so với giá trị xuất khẩu lương thực, dao động từ cao đến trong nước hầu như không an toàn để tiêu thụ hơn so với trung bình so với các nước khác (xem Hình 2).17 Trong các mặt hàng xuất khẩu. những năm gần đây, các nước bao gồm Nhật Bản và Úc đã cảnh báo sẽ làm gián đoạn một số hàng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam do các mối quan ngại về an toàn thực phẩm (Nguyễn Cố V. 2017). Tác động giảm tiềm năng do mối Ngành trồng trọt Bảng 1. Từ chối các sản phẩm cá và thủy sản của Việt Ô nhiễm đầu vào nông nghiệp đã tăng lên đáng kể ở Nam từ các thị trường xuất khẩu chính, 2002– Việt Nam trong hai thập kỷ qua cùng với việc mở rộng 2010 và thâm canh cây trồng. Sản lượng cây trồng tăng mạnh Thị trường Giá trị từ chối Thứ hạng của Giai đoạn trong suốt giai đoạn này do sự gia tăng không gian của (US$ triệu) Việt Nam việc sản xuất trồng trọt và thâm canh (xem Hình 3). Diện Hoa Kỳ 73,0 #2 (sau Trung Quốc) 2002–2010 tích thu hoạch cho cây lương thực tăng gần 23% trong giai Nhật Bản 17,6 #1 2006–2010 đoạn 1995 đến 2014, vào thời điểm đó gần 9 triệu héc-ta Châu Âu 14,3 #2 (sau Indonesia) 2004–2010 (dựa trên dữ liệu TCTK ở Nguyễn T.H. 2017). Trong khi Úc 3,6 #2 (sau Trung Quốc) 2003–2010 đất trồng lúa, sắn, cà phê và cao su đã tăng đáng kể kể từ Tổng 108,5 #1 những năm 90, diện tích trồng lúa đã tăng lên một cách Nguồn: dựa vào báo cáo của UNIDO 2015. vừa phải và gần đây nhất đã bắt đầu giảm (dựa trên số liệu TCTK tại Nguyễn Thọ 2017). Đối với thâm canh, có thể Hình 2. Tỷ lệ từ chối sản phẩm thực phẩm của Việt Nam, nhờ sự tin cậy ngày càng tăng của thủy lợi, hóa chất nông 2002–2010 nghiệp và giống được cải thiện (và ở mức độ thấp hơn về RRRI cho tất cả các sản phẩm thực phẩm cơ giới hóa). 10 – •• Từ năm 1983 đến năm 2013, tiêu thụ phân bón đã tăng gần bảy lần lên mức cao nhất là 26 triệu tấn vào 5– năm 2013 (dựa trên dữ liệu của FAO).18 Khoảng hai phần ba lượng phân bón được sử dụng cho lúa gạo; VNM VNM VNM một lượng đáng kể phân bón được sử dụng cho các 0– VNM loại cây trồng khác (từ 5 đến 10 phần trăm tổng số quốc gia) là ngô, cà phê và cao su (nhiều nguồn ở Nguyễn T.H. 2017). Việc tăng sử dụng phân bón -5 – Châu Úc Liên minh châu Âu Nhật Bản Hoa Kỳ nói chung chậm lại kể từ năm 2004 (khi đạt 25 triệu RRRI thấp RRRI trung bình RRRI cao tấn), và việc sử dụng phân bón thậm chí đã giảm ▬▬ở giữa ▬▬Phần trăm thứ 5 và 95 giá trị ngoại biên trong một vài năm trong thập niên đó. Nguồn: UNIDO Dấu hiệu tuân thủ tiêu chuẩn thương mại 2012. Lưu ý: RRRI = tỷ lệ chia sẻ của một quốc gia trong tổng số từ chối trong một thị trường đối với tổng số hàng nhập khẩu vào thị trường này trong toàn bộ thời kỳ (2002-2010 trong trường hợp này). 16 Kháng sinh là nguyên nhân hàng đầu cho xuất khẩu sản phẩm giáp xác của Việt Nam bị loại khỏi Liên minh châu Âu (EU) trong thập niên 2007-2017, tiếp theo là sự hiện diện của các mầm bệnh (dựa trên Hệ thống Thông báo Nhanh của Châu Âu về Truy vấn Thực phẩm và Feed vào tháng 1 năm 2007 Đến tháng 4 năm 2017 (https://webgate.ec.europa.eu/rasff-window/portal/?event=searchResultList) Tương tự với xuất khẩu nông sản của Việt Nam: khoảng 27% trường hợp từ chối thực phẩm nông nghiệp là do Đối với dư lượng kháng sinh và 23% là do nhiễm bẩn vi khuẩn trong giai đoạn 2002-2010 (dựa trên UNIDO 2015) Nhìn qua các thị trường, sự hiện diện của các loại thuốc thú y chiếm 11 phần trăm số lượng các sản phẩm nông nghiệp bị từ chối của EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản trong giai đoạn 2002-2010 (Trần và cộng sự, 2013, Ngân hàng Thế giới 2017). 17 Từ chối sản phẩm thủy sản chiếm ưu thế từ chối xuất khẩu thực phẩm. 18 Về phương diện dinh dưỡng của nitơ, photpho và kali. Các phát hiện 11 •• Sử dụng thuốc trừ sâu ở Việt Nam được ước tính đã này, nó được dựa trên việc nắm bắt các hoạt động độc canh tăng khoảng 3-5 lần trong khoảng 25 năm, với việc tăng cường được hỗ trợ bởi đầu tư vào các hệ thống đê bao nhập khẩu các thành phần hoạt chất thuốc trừ sâu kép cùng với việc sử dụng phân bón tổng hợp (cần thiết từ 20.000 đến 30.000 tấn / năm trong những năm một phần để giảm sự mất nước phù sa) và thuốc trừ sâu 1990 đến gần 100.000 tấn vào năm 2015 (Liên T. hóa học (cần một phần do tính dễ bị tổn thương của độc 2015, Khánh và Thanh 2010 và Truong QT 2015 canh đối với dịch hại ngày càng tăng). Trong trường hợp tại Nguyễn Thọ 2017).19 Mức độ thành phần hoạt cà phê, việc mở rộng đầu ra không chỉ phụ thuộc vào phân chất trên mỗi héc-ta, tương tự, có thể tăng gấp ba lần bón và tưới tiêu, mà còn một phần là do việc mở rộng diện trong giai đoạn này (Liễu T. 2015, Khánh và Thanh tích cây trồng trên đất không phù hợp.20 Kết quả của quá 2010 và Trương Q. T. 2015 ở Nguyễn T. H. 2017). trình này đã góp phần vào tình hình hiện tại, trong đó phần lớn nông dân đang sử dụng nhiều đầu vào hơn mức Định hướng tăng trưởng sản lượng có thể góp phần vào cần thiết, chứ không chỉ phải chịu chi phí về lợi nhuận và việc sử dụng hoá chất nông nghiệp nặng nề và thường sức khoẻ cá nhân mà còn phải chịu chi phí cho môi trường xuyên ở các đồng ruộng. Ngày nay, chính sách của Chính và sức khoẻ cộng đồng. phủ Việt Nam là hỗ trợ giảm diện tích trồng lúa và cà phê, bù đắp bằng việc tăng cường liên tục và đa dạng hoá các Trong khi đó, sự thống trị liên tục của quy mô trang trại hoạt động nông nghiệp. Trọng tâm gần đây chỉ mới bắt nhỏ - ngay cả khi nông nghiệp tăng lên - cũng làm trầm đầu chuyển từ sản xuất để tập trung hơn vào chất lượng, trọng thêm tình trạng ô nhiễm từ canh tác. Cũng như ở giá trị gia tăng, và tính bền vững, tuy nhiên. Trong gần hai phần lớn khu vực, sự tăng cường không kèm theo sự gia thập kỷ qua, nhà nước đã thúc đẩy ngành này đạt được các tăng quy mô trang trại trung bình, và ngay cả khi một số mục tiêu sản xuất đầy tham vọng thông qua tăng cường và hoạt động hợp nhất đã bắt đầu, quy mô trang trại còn nhỏ mở rộng không gian và hạn chế về hậu quả môi trường. Ví (xem Hình 4). Ví dụ, một số hoạt động hợp nhất đã xảy dụ, khả năng chuyển từ một đến hai lần và đôi khi ba vụ ra ở đồng bằng sông Cửu Long và ở mức độ nào đó trong lúa / năm trong khoảng thời gian vài năm (Ngân hàng Thế canh tác cà phê ở Tây Nguyên (xem Jaffee và cộng sự 2016, giới năm 2012) là biểu tượng của việc rủi ro môi trường Havemann và cộng sự, năm 2015). Ngay cả trong những của Việt Nam đã có thể thực hiện được. Trong trường hợp trường hợp này, tuy nhiên, trang trại trung bình vẫn còn Hình 3. Các xu hướng trong sản xuất ngũ cốc, năng suất, Hình 4.  Phân bố kích cỡ đồng ruộng, 2001–2011 và các khu vực thu hoạch, 1961–2013 1961 = 100 600 – 2001 2011 500 – 5% 35% 26% 6% 400 – 28% 300 – 200 – 25% 100 – 34% 0– 41% 1961 1966 1971 1976 1981 1986 1991 1996 2001 2006 2011 ▬▬Diện tích đã thu hoạch ▬▬Năng suất ▬▬Sản xuất Nông trại=<0.2 ha 0.2=2 Nguồn: Dựa trên dữ liệu của FAOSTAT. Nguồn: Tổng điều tra Dân số năm 2001 và năm 2011 ở Jaffee và các cộng sự. Năm 2016. Lưu ý: Sự gia tăng diện tích thu hoạch đôi khi phản ánh việc sử dụng đất nông nghiệp thâm canh hơn để trồng nhiều vụ hơn một năm chứ không phải là mở rộng không gian trồng trọt Trung Quốc (đại lục. 19 Về phương diện các hoạt chất. 20 Ở Tây Nguyên, nơi sản xuất phần lớn cà phê Việt Nam, hình ảnh vệ tinh từ năm 2014 cho thấy diện tích trồng thực tế lớn hơn 25% so với số liệu thống kê chính thức được ghi nhận trong năm 2010. Và tại tỉnh Đăk Lăk, cụ thể, 19 phần trăm Diện tích gieo trồng (41.500 trên 221.000 héc-ta) được định vị là đất bị coi là không thích hợp hoặc phù hợp với cà phê (dựa trên dữ liệu của NIAPP 2014 trong Havemann và cộng sự. 2015). 12 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt nhỏ. Quy mô trang trại bình quân đối với lúa gạo ở đồng Nhiều yếu tố góp phần vào việc sử dụng phân bón thường bằng sông Cửu Long chỉ hơn 1 ha, nhưng ở Đồng bằng lãng phí và mất cân bằng. Lý do sử dụng phân bón quá sông Hồng khoảng 0,2 ha (dựa trên số liệu của Tổng cục mức bao gồm tính dễ sử dụng và khả dụng rộng rãi với mức Thống kê năm 2012 tại Nguyễn T. H. 2017). Sản xuất quy giá được trợ cấp một phần - các sản phẩm phân bón trong mô vừa và lớn vẫn còn rất ít, mặc dù đã có những nỗ lực để nước được hưởng lợi từ năng lượng được trợ cấp và thuế gộp các lô lúa từ 30 đến 50 nông dân một lần và cùng nhau suất ưu đãi - cũng như độ phì đất giảm,25 Và ảnh hưởng vận hành chúng như là một trang trại thương mại trong cái của các nhà tiếp thị, bao gồm các đại lý khuyến nông trong gọi là "nông dân nhỏ, cánh đồng lớn " mô hình.21 Phần lớn một số trường hợp. Chất thải cũng xảy ra vì việc kiểm tra trong số 640.000 nông dân trồng cà phê của Việt Nam có đất vẫn còn rất hiếm ở Việt Nam, cũng như việc pha trộn diện tích trồng dưới 1 ha, mặc dù từ giữa những năm 2000 các loại phân theo yêu cầu của địa phương; Và phân bón đã có sự sáp nhập sản xuất với các trang trại từ 3 đến 10 có sẵn thường có chất lượng kém. Thiệt hại về phân bón hecta, chiếm tỷ trọng cao về sản lượng (Havemann và cộng thường bị giảm sút do việc sử dụng phân bón, bề mặt, và sự, 2015). Tốc độ hợp nhất này có thể có ý nghĩa đối với ô việc sử dụng phân bón không đúng thời điểm (làm cho nhiễm và kiểm soát ô nhiễm. Các hộ sản xuất nhỏ có thể nó dễ chảy nước), và sự quá tải (đặc biệt là cà phê). Việc dễ bị lạm dụng đầu vào (ít năng lực hơn và khuyến khích sử dụng quá mức phân bón cũng có thể kéo dài, vì việc sử sử dụng hóa chất chính xác hơn).22 Thực tế là có rất nhiều dụng phân bón nhiều hơn để giảm thiểu các tác động bất người - và các thể chế hành động tập thể có vẻ yếu trong lợi mà việc sử dụng quá mức lên đất và khả năng sinh sản lĩnh vực trang trại của Việt Nam - cũng làm tăng thách của chúng. Điều này tương tự như cách lạm dụng thuốc thức trong việc kiểm soát hoặc đạt được sự thay đổi hành trừ sâu bắt đầu sự tin cậy nhiều hơn vào các hóa chất này vi trong ngành. để chống lại sự hồi sinh của các quần thể dịch hại đã được quản lý một cách tích cực nhưng chưa được kiểm soát. Vấn đề sử dụng quá mức phân bón đặc biệt nghiêm trọng ở đồng bằng sông Cửu Long và trong sản xuất cà phê ở Hình 5. Tỷ lệ sử dụng phân bón trên lúa ở một số nước Tây Nguyên.23 Đa số nông dân trồng lúa và cà phê đều châu Á, 2010–2011 sử dụng phân bón theo tỷ lệ phần lớn vượt quá mức đề Số Kg N, P và K trên mỗi hecta lúa nghị để tối đa hóa năng suất hoặc lợi nhuận. Ví dụ, trong 300 – canh tác lúa, hầu hết nông dân đều sử dụng phân bón cao 250 – hơn khoảng 20 đến 30% so với mức đề nghị (dựa trên 200 – khảo sát của Viện nghiên cứu phát triển đồng bằng sông Cửu Long năm 2014 ở Kiên Giang và tỉnh An Giang năm 150 – 2014 được trích dẫn ở Nguyễn TH 2017). Ở khoảng 180 100 – kg chất dinh dưỡng24 Trên một hecta lúa thu hoạch trong giai đoạn 2010-2011, tỷ lệ áp dụng ở Việt Nam thấp hơn 50 – 30% so với Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia (26 đến 33 0– phần trăm), nhưng cao hơn 50% so với ở Indonesia và trên MYS CHN IND VNM BGD IDN PHL THA 200 Phần trăm cao hơn so với ở Philippines và Thái Lan Nguồn: Dựa trên dữ liệu Hiệp hội Công nghiệp phân bón Quốc tế (lượng phân bón tiêu thụ) và dữ liệu của FAOSTAT (khu vực thu hoạch lúa). (xem Hình 5). Ở các trang trại cà phê, tỷ lệ ứng dụng nitơ đã vượt quá mức được khuyến cáo bởi các dịch vụ khuyến nông tới 50%, và lân khoảng 210%. 21 Các Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (DARDs) đã tích cực khuyến khích các nhóm từ 25 đến 100 trang trại lân cận quản lý đất đai của họ như là một trang trại đơn, vừa không có người nông dân từ bỏ quyền sử dụng đất. Nông dân phá vỡ các bức tường thấp giữa các ô, chuẩn bị đất với nhau, quản lý nước và trồng các giống cây trồng giống nhau. Các Sở NN & PTNT đã can thiệp, ví dụ, bằng cách khuyến khích nông dân thành lập các nhóm, tạo điều kiện cho các hợp đồng giữa các nhóm như vậy và các nhà máy xay xát gạo, và tài trợ hoặc cung cấp dịch vụ san lấp, tư vấn và các dịch vụ khác. 22 Xem, ví dụ, bằng chứng từ Trung Quốc và Indonesia ở Sun và các cộng sự 2012; Ju và các cộng sự. Năm 2016; Zhou và các cộng sự. 2010; Và Osorio và các cộng sự. Năm 2011. 23 Các phương pháp bón phân ít được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn trong trồng ngô. 24 Nitơ, phốt pho và kali. 25 Bao gồm kết hợp với sự mất mát đất đã được ghi nhận của đất phù sa do đê; Và có khả năng liên quan đến việc sử dụng đất đai ven bờ, việc khai thác đất liên tục theo các hoạt động canh tác thâm canh và đất đai bị axit hoá cũng là kết quả của chúng. Các phát hiện 13 Việc lạm dụng thuốc trừ sâu cũng lan tràn ở một số khu ĐBSCL đang bán phá giá thuốc trừ sâu vào ruộng lúa hoặc vực của Việt Nam, nơi mà các nông trang đã nhanh ruộng lúa; Chỉ có khoảng 17% nông dân được báo cáo thu chóng sử dụng thuốc trừ sâu ở mức tối thiểu cho tới mức thập các thùng chứa và chôn chúng hoặc bán chúng để tái khá là cao (so với khuyến cáo), với những lo ngại về việc chế (Toan 2013). Khoảng 90% nông dân cho biết họ đã lạm dụng đặc biệt đối với lúa gạo, mặc dù mức độ cao rửa sạch máy xay ngay tại ruộng lúa, kênh rạch, ao hoặc hơn trung bình  (Anh 2002 ở Phạm và cộng sự, 2012). sông (Toan 2013). Không rõ ràng là trong bất kỳ trường Như đã lưu ý, việc sử dụng thuốc trừ sâu đã tăng lên đáng hợp tái chế bao bì thuốc trừ sâu là cần thiết vì thiếu cơ sở kể kể từ khi nhập khẩu được hợp pháp hóa vào năm 1986 hạ tầng để thu gom và tái chế đúng cách vào năm 2015 mặc dù đã có hơn một thập kỷ nỗ lực nhằm làm giảm xu được công nhận là một dạng chất thải nguy hại (có nghĩa hướng này.26 Mức sử dụng thuốc trừ sâu trung bình ở Việt là việc tái chế nó thậm chí không hợp pháp). Nam so với mức ở Hoa Kỳ và EU trên cơ sở mỗi hecta (dựa trên dữ liệu của FAO), nhưng việc sử dụng nó rất tập trung Tất cả các biện pháp này không chỉ dẫn đến việc kiểm vào sản xuất lúa gạo. Trong các hệ thống lúa gạo, việc sử soát sâu bệnh tối ưu dẫn tới việc sử dụng thuốc trừ sâu dụng thuốc trừ sâu được cho là đã vượt quá mức cần thiết nhiều hơn (sự bùng phát của phễu màu nâu là do lạm để đạt được mức tăng trưởng đầu ra (Bùi, Võ và Nguyễn dụng thuốc trừ sâu), nhưng cũng làm tăng sự tiếp xúc 2013, và Nguyễn và cộng sự, 1999 ở Nguyễn T.H. 2017). không mong muốn của động vật hoang dã và người với thuốc trừ sâu. Theo một số tài liệu, các ruộng lúa canh tác Một phần của lời giải thích là chỉ có một số ít người mạnh mẽ đã trở thành vùng chết, không có ốc sên, ếch, bán thuốc trừ sâu, các đại lý khuyến nông và nông dân cá, chuột, và các sinh vật khác đã từng sinh sống ở đó.28 hiểu đúng về thuốc trừ sâu,27 Và những nỗ lực để thúc Ví dụ, một nghiên cứu ở ĐBSCL đã phát hiện ra một đẩy quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) đã không đạt được số vùng nước mặt bị ô nhiễm bởi thuốc trừ sâu vì chúng mong đợi. Nông dân tiếp tục bỏ qua các hướng dẫn về liều không thích hợp cho các hoạt động nông nghiệp (UNU- lượng, pha trộn, thời gian và cách thức áp dụng. Để minh EHS 2010). Rủi ro về thuốc trừ sâu đã ảnh hưởng xấu đến hoạ, một nghiên cứu cho thấy 50-60% nông dân trồng lúa thủy sản trên sông, mặc dù mức độ và chi phí kinh tế của đã sử dụng thuốc trừ sâu với tỷ lệ vượt quá mức đề nghị việc này chưa được biết đến. Nước ngầm tiếp cận qua giếng bởi vì họ tin rằng liều cao hơn sẽ có hiệu quả hơn (Bui, Vo, cũng đã được tìm thấy có chứa dư lượng thuốc trừ sâu vượt và Nguyen 2013 tại Nguyễn T.H. 2017). Một nghiên cứu quá tiêu chuẩn nước sạch an toàn (Lamers và các cộng sự., khác cho thấy 38 đến 70% nông dân ở các tỉnh phía Nam 2011). Điều này đặc biệt gây hại cho nông dân và cộng đang sử dụng thuốc trừ sâu với tỷ lệ vượt quá mức khuyến đồng nông thôn, những nơi bị ngộ độc thuốc trừ sâu và cáo, gần 30% trộn nhiều loại thuốc trừ sâu vào thời điểm các bệnh ung thư có liên quan (Dasgupta và cộng sự 2007). áp dụng mặc dù đây là một hoạt động bị truất ngôi (Trần Tuy nhiên, nó cũng ảnh hưởng đến người tiêu dùng một Thị Ngọc Lan et al. Năm 2014). cách rộng rãi hơn bởi vì cây trồng thường được thu hoạch quá sớm sau khi ứng dụng thuốc trừ sâu, dẫn đến mức độ Nông dân cũng thường xuyên bỏ qua các hướng dẫn không an toàn đối với sản phẩm (Hoai và cộng sự, 2011) về việc vứt bỏ các dụng cụ chứa thuốc trừ sâu đã qua sử và đã phát hiện được 12 loại thuốc trừ sâu có tỷ lệ vượt quá dụng, hoặc việc xử lý các thiết bị ứng dụng - đôi khi vì tiêu chuẩn nước uống. Nước mặt, nước giếng, nước mưa thiếu các lựa chọn tốt hơn. Các thùng chứa thuốc trừ và nước đóng chai (Nguyễn, CGD và cộng sự, Lamers và sâu thường bị thải ra, cùng với các hóa chất còn sót lại của các cộng sự., Toan và các cộng sự., 2013). Liên quan đến chúng, trực tiếp vào các cánh đồng, kênh rạch và suối, như mức độ của thuốc trừ sâu cũng đã được tìm thấy trong các ở đồng bằng Sông Hồng và Sông Hồng (Phạm và các cộng mẫu cá (Hoai và các cộng sự., 2011). Việc phát hiện dư sự, 2012). Một nghiên cứu cho thấy hơn 70% nông dân ở lượng thuốc trừ sâu quá mức trên sản phẩm thực vật cũng 26 Theo nông nghiệp tập thể, chính phủ đã cung cấp thuốc trừ sâu với giá trợ giá và khuyến cáo phun trên cơ sở lịch, ít chú ý đến các điều kiện thực địa (Pincus 1995 và Chung và Dung 2002 ở Dasgupta và các cộng sự. 2007). 27 Cũng xem kết quả khảo sát năm 2015 của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Nông thôn và các nghiên cứu khác; http://library.ipamglobal.org/jspui/bitstream/ ipamlibrary/818/1/Knowledge-Attitude-and-Practice-KAP.pdf. 28 Một nghiên cứu cho thấy thuốc trừ sâu có thể gây hại cho sự phát triển và sự sống còn của cá trắm (cá) ở đồng bằng sông Cửu Long trong năm 2007 (Nguyen T. T. 2016). 14 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt đã dẫn đến sự từ chối thương mại và làm gián đoạn dòng kể trong việc sử dụng hoá chất nông nghiệp có thể thực chảy thương mại,29 Mặc dù thiệt hại chi phí của những sự hiện được với những thực tiễn đúng đắn và có thể mang từ chối này và những ảnh hưởng của chúng đối với danh lại cho nông dân tiết kiệm đáng kể. Ví dụ, nông dân trồng tiếng và doanh thu của ngành công nghiệp vẫn chưa được lúa của Việt Nam tham gia vào chương trình "1 phải và 5 phân tích đầy đủ. giảm”32 Ở đồng bằng sông Cửu Long có thể làm giảm chi phí sản xuất từ 18 đến 25% trên mỗi hecta vụ thu hoạch Một mối quan ngại song song với việc sử dụng thuốc trừ mà không làm giảm sản lượng (Nguyễn T. H. và cộng sự, sâu quá mức và không đúng cách ở Việt Nam là sự độc 2015). Cho dù họ có liên quan đến nhận thức thấp và năng hại của hỗn hợp thuốc trừ sâu. Ví dụ, một cuộc khảo sát lực kỹ thuật, thiếu tiếp cận với công nghệ tốt hơn, lao động của nông dân ở đồng bằng sông Hồng cho thấy gần một hạn chế, hoặc các yếu tố khác, những trở ngại để nhân rộng trong ba loại thuốc trừ sâu được nông dân sử dụng thuộc chương trình này cần phải được điều tra thêm. Tương tự, loại thuốc trừ sâu mà Tổ chức Y tế Thế giới cho là "cực Technoserve (2013) ước tính rằng thu nhập của nông dân kỳ nguy hiểm" (loại I) (Pham và các cộng sự. 2012). Các có thể tăng khoảng 30% (từ mức cơ bản là 1.500 USD / chất này bao gồm các chất hữu cơ photphat, các hợp chất năm, giá cà phê 2013) do chi phí bơm và phân bón thấp organocholin, pyrethroids, và carbamates, trong số các hơn và sản lượng cao hơn. Tuy nhiên, những người nông chất khác. Ngoài ra, một số loại thuốc trừ sâu bị cấm hoặc dân đã không đánh giá đánh giá thấp những điều này - không đăng ký (như metyl parathion, methamidophos hoặc có thể là mất quá nhiều thời gian để đánh giá – để có và carbofuran) đã được sử dụng - mặc dù tỷ lệ phần trăm thể khiến cho họ thay đổi. đang giảm. Nói chung, người nông dân Việt Nam có xu hướng sử dụng các loại thuốc trừ sâu không đắt tiền, ít tốn Một mối quan ngại về ô nhiễm đáng kể khác là đốt cháy kém, có thể được sản xuất hoặc pha trộn trong nước, và chất thải từ hoạt động trồng trọt như rơm rạ và trấu. Các có tính độc hại hơn và bền bỉ hơn các loại khác (Phạm nghiên cứu về hiện tượng này cho thấy việc đốt cháy được và các tác giả năm 2012). Việc kiểm tra thương lái, người thực hiện rộng rãi, bao gồm cả trồng lúa, cà phê và ngô. bán và người nông dân thực hiện trong năm 2010-2011 Một nghiên cứu cho thấy 98% nông dân được điều tra ở cho thấy khoảng 20% nông dân đang sử dụng thuốc trừ đồng bằng sông Cửu Long đốt rơm sau vụ đông xuân, 90% sâu vi phạm các quy định hiện hành (sử dụng thuốc trừ đốt sau mùa hè và 54% đốt sau mùa thu-đông (Trần Sỹ sâu bất hợp pháp nhập khẩu, cấm hoặc thậm chí giả mạo) Nam và Al 2014). Việc đốt các tàn dư thực vật là một biện (Nguyễn T. H. 201730). Việc tiếp tục sử dụng thuốc trừ sâu pháp phổ biến để loại bỏ chất thải sau khi thu hoạch bởi vì bị cấm một phần là do giá thuốc tương đối thấp (được hỗ đây là một phương pháp không tốn kém và nhanh chóng trợ bởi cạnh tranh về giá31), Và ít nhất một phần là do hiệu để chuẩn bị đất cho vụ mùa tiếp theo. Một số sở NN & quả của chúng (do độc tính của chúng đối với một phạm PTNT (Sở NN & PTNT Đồng Tháp ở An Giang) đã báo vi rộng của sâu bệnh). Ngoài ra, việc thực thi và kiểm soát cáo một số mức giảm rơm rạ vào năm 2015 do giá rơm của sử dụng hóa chất độc hại nhìn chung còn yếu (Hoi và cộng thị trường tăng và sự sẵn có của thiết bị thu gom và chế sự 2016). biến. Việc tuyên bố rằng đốt cháy đã giảm vẫn còn giai thoại, tuy nhiên, và không có bằng chứng về sự thay đổi Tình hình sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu có thể khắc bền vững và rộng hơn. Những thách thức mà Trung Quốc phục được. Các chương trình thử nghiệm và các nghiên gặp phải trong việc kiểm soát đốt chất thải trồng trọt mặc cứu hiện trường đã chứng minh rằng những cải tiến đáng dù các nỗ lực có nguồn lực của nó để thực thi các hành 29 Ví dụ như xem việc đình chỉ xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Hoa Kỳ do vi phạm về thuốc trừ sâu vào năm 2016; Http://e.vnexpress.net/news/business/vietnam- suspends-rice-exports-to-us-after-pesticide-violations-3476874.html. Tuy nhiên, việc từ chối trái cây và rau quả xuất khẩu liên quan đến thuốc trừ sâu đã bị thu hẹp bởi việc từ chối liên quan đến ô nhiễm vi sinh vật (UNIDO 2015). 30 xem thêm báo cáo về thuốc trừ sâu nhập lậu; http://infonet.vn/80-thuoc-bao-ve-thuc-vat-nhap-tu-trung-quoc-post153761.info. 31 Xem Truong Quoc Tung 2015. 32 Viện Nghiên cứu Gạo Quốc tế phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang, "1 Phải và 5 Giảm" hoặc 1P5G, kêu gọi nông dân sử dụng hạt giống được chứng nhận ("1 phải"), đồng thời giảm Sử dụng bốn nguyên liệu đầu vào (hạt giống, nước, thuốc trừ sâu và phân bón hóa học) và tổn thất sau thu hoạch ("giảm 5 lần"). Ước tính này dựa trên việc thí điểm gói 1P5G ở Kiên Giang và An Giang ở đồng bằng sông Cửu Long qua chín mùa vụ trong năm 2012-2014. Nghiên cứu cho thấy 1P5G có thể sẽ giúp tiết kiệm được 1,4 tỷ USD mỗi năm cho người nông dân, với giả định là 4 triệu ha gạo xát hai vụ. Các phát hiện 15 Hình 6. Phân tích phát thải GHG nông nghiệp ở Việt Nam, Hình 7. Tăng lượng phát thải khí nhà kính nông nghiệp ở ước tính năm 2014 Việt Nam, 1994–2010 Phần trăm Canh tác lúa 500 – 30% Khác 6% 400 – 300 – 200 – Chăn nuôi 25% 100 – 0– Phân bón tổng Quản lý Đất nông Canh Lên men Đốt các chất thải hợp 33% phân bón nghiệp tác lúa đường ruột từ nông nghiệp Nguồn: Dựa trên dữ liệu của FAOSTAT. Nguồn: Dựa trên số liệu phát thải được báo cáo cho UNFCCC (https://unfccc.int/files/ghg_ Lưu ý: Nitrous oxide và Metan. Phát thải chăn nuôi bao gồm từ việc lên men và quản lý phân data/ghg_data_unfccc/ghg_profiles/application/pdf/vnm_ghg_profile.pdf). chuồng. Các phát thải khác bao gồm các chất thải từ việc cày cấy và quản lý đất (không đốt) và đốt. động cấm đối với thực tiễn này cho thấy cần phải thận trúc khuyến khích và các yếu tố khác có thể làm cho việc trọng trong việc đánh giá này.33 áp dụng rộng rãi hơn. Việc đốt các tàn dư nông nghiệp phát ra các chất gây ô nhiễm gây nguy hiểm sức khoẻ đáng kể và có thể góp phần làm nóng khí hậu trong thời gian ngắn. Phát thải bao Hành động của khu vực gồm SO2, nitơ oxit (NOx), cacbon monoxit (CO), cacbon công đến nay đen, cacbon hữu cơ (OC), khí mê-tan (CH4), các hợp chất hữu cơ bay hơi cacbon dioxit (VOC), nonmethane Có vẻ như đã có một bước ngoặt trong những năm gần Hydrocarbon (NMHC), ozon (O3), bình xịt hơi nước, và đây đối với hành động của chính phủ về kiểm soát ô các chất khác (Tripathi, Singh, và Sharma 2013). nhiễm nông nghiệp. Như đã lưu ý, Kế hoạch tái cơ cấu ngành Nông nghiệp 2013 của Bộ NN & PTNT đã phản Nói một cách riêng biệt, nông nghiệp là ngành đóng góp ánh sự nhận thức ngày càng tăng của thách thức ô nhiễm lớn thứ hai cho phát thải khí nhà kính nói chung và sản nông nghiệp và sự phân chia của các cơ quan chính quyền xuất lúa gạo là nguồn phát thải nông nghiệp hàng đầu. trung ương và địa phương. Gần đây hơn, khung pháp lý về Dấu chân lúa gạo còn quan trọng hơn nếu phát thải phân phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm nông nghiệp đã được bón kèm theo những chất có trong phân hủy chất hữu cơ tăng cường và phù hợp hơn với những thách thức và thực trong các vùng nước nông ở ruộng lúa (phát ra khí nitơ tế cụ thể của ngành nông nghiệp. Một bước ngoặt trong oxit và khí mê-tan, cả khí nhà kính mạnh) (xem Hình 6). chính sách nông nghiệp-môi trường của Việt Nam dường Việc sử dụng phân bón là nguồn phát thải khí nhà kính như đã đạt được vào năm 2015 vì một số luật và các biện phát triển nhanh thứ hai trong việc quản lý phân bón (xem pháp thực hiện đã có hiệu lực hoặc đã được thông qua "đất nông nghiệp" trong Hình 7). Giống như phân bón và (xem Hình 8). Bao gồm Luật ban hành văn bản quy phạm thuốc trừ sâu, nông dân đã được hưởng lợi tư nhân trong pháp luật (có hiệu lực năm 2015), trong đó yêu cầu các nhiều trường hợp từ việc áp dụng các biện pháp canh tác cơ quan nhà nước khác nhau xây dựng văn bản quy phạm lúa đã chứng minh để làm giảm mức độ ô nhiễm. Điều này pháp luật liên quan đến các khía cạnh khác nhau của bảo đòi hỏi phải đạt được sự hiểu biết sâu sắc hơn về các cấu vệ môi trường nông nghiệp.34 Các biện pháp bao gồm các 33 Điều đó cho thấy, tỷ lệ đốt chất thải nông nghiệp ở Trung Quốc là tương đối thấp, ước tính dưới 24 phần trăm vào năm 2013, so với 54 phần trăm đến 98 phần trăm ở Việt Nam, tùy thuộc vào mùa (Gao và cộng sự sắp tới, Trần Sỹ Nam và cộng sự Năm 2014). 34 Ví dụ, Cơ quan bảo vệ trồng trọt của Bộ Nông nghiệp và PTNT có nhiệm vụ đề xuất và chuẩn bị các thông tư, chỉ thị liên quan đến phân bón và thuốc trừ sâu và các đơn vị khác trong và ngoài Bộ NN & PTNT đã được kêu gọi đóng góp ý kiến và đóng góp cho quá trình này. 16 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt luật về bảo vệ môi trường (có hiệu quả năm 2015), bảo •• Theo dõi và kiểm soát các nguồn nonpoint, đặc vệ thực vật và các vấn đề vệ sinh động thực vật (có hiệu biệt là với tài nguyên giới hạn (con người / kỹ thuật quả năm 2015) và các vấn đề thú y (được thông qua năm và tài chính) mà đôi khi lan truyền mỏng. Các chất 2015); Cũng như một loạt các biện pháp thực hiện. Thứ gây ô nhiễm không phải nguồn gốc nông nghiệp rất hai bao gồm các chỉ thị và thông tư về sử dụng kháng sinh khó để theo dõi và đo lường, làm cho việc xác định và dư lượng chất độc hại trong nông nghiệp chăn nuôi và và xử lý (hoặc có biện pháp khắc phục) người gây an toàn thực phẩm; Về vai trò và trách nhiệm của các cơ ô nhiễm rất khó khăn. Điều này đặc biệt đúng với quan cấp tỉnh (tổ chức lại); Về quản lý sản phẩm thuốc nguồn tài chính hạn hẹp để theo dõi và giám sát, trừ sâu; Thực hành nông nghiệp tốt; Biogas; và hơn thế nhân viên có giới hạn và chuyên môn kỹ thuật hạn nữa. Trước đây, các hoạt động nông nghiệp nói chung phải chế. Ví dụ, Cục Bảo vệ Thực vật của Bộ Nông nghiệp tuân thủ các quy định về môi trường và an toàn thực phẩm và PTNT có khoảng 4.000 nhân viên, và có khoảng rộng hơn - một bộ pháp luật cụ thể theo ngành ít với sự 10 triệu nông dân trồng thuốc trừ sâu để giám sát. liên kết hạn chế.35 Một ngoại lệ đáng chú ý trong lĩnh vực Điều này có nghĩa là mỗi nhân viên phải theo dõi này là Luật Thuỷ sản năm 2003, mặc dù việc thực hiện nó khoảng 2.500 nông dân, trung bình, một nhiệm tỏ ra không hiệu quả và đang được sửa đổi vào năm 2017. vụ mà với các nguồn lực kỹ thuật hiện tại và về cơ Trên thực tế, các quy định về thủy sản đã đi theo một mô bản không có sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương hình tương tự, bắt đầu có tính cụ thể và có hiệu lực từ năm được cho là không thể thực hiện được (Bộ NN & 2013 Các tiêu chuẩn kỹ thuật đã được ban hành vào năm PTNT 2016a). Vì những lý do tương tự, năng lực 2013, năm 2014 và năm 2015 để cố gắng cho nó thêm sức của chính phủ để kiểm soát chất lượng phân bón vẫn mạnh). còn hạn chế, làm cho nó không có khả năng giảm bớt việc thương mại hóa phân bón giả và phân bón Việc nêu rõ và điều chỉnh luật pháp và các quy định đang chất lượng thấp. Hơn nữa, nguồn lực hạn chế không được tiến hành và một số bắt đầu được đi kèm với đầu phải lúc nào cũng được sử dụng tốt nhất và có khả tư công vào cơ sở hạ tầng và năng lực hỗ trợ. Ví dụ, tại năng lan rộng khi xem xét có thể chồng chéo vai trò thời điểm viết báo cáo này (2017), Bộ NN & PTNT đang và trách nhiệm của các bộ phận khác nhau của chính trong quá trình chuẩn bị một thông tư mới liên quan đến quyền và thường không có sự phối hợp giữa các cơ quản lý hoá chất nông nghiệp, dư lượng và chất thải, trong quan chính phủ khác nhau. đó sẽ được hướng dẫn bởi mục tiêu hòa hợp tăng trưởng và môi trường Bảo vệ và cải thiện sự phối hợp, thực thi và •• Trách nhiệm không rõ ràng và thiếu phối hợp. Sự trách nhiệm giải trình. Từ năm 2016, Bộ NN & PTNT thiếu rõ ràng và phối hợp các vai trò và trách nhiệm và Bộ TN & MT đã và đang hợp tác để xây dựng hướng thường đóng góp vào việc thi hành luật và các quy dẫn xử lý và quản lý các thùng chứa thuốc trừ sâu đã qua sử định yếu kém - có lẽ vì sự chồng chéo về trách nhiệm dụng và để "xây dựng năng lực" (bao gồm cả chuyên môn tạo ra sự lẫn lộn và các lý do không tuân thủ; Hoặc kỹ thuật và cơ sở hạ tầng) để loại bỏ thuốc trừ sâu độc hại bởi vì một số khía cạnh của luật pháp mà không có và lâu dài. Đồng thời, Bộ Tài chính đang hỗ trợ tài chính cơ quan nào chịu trách nhiệm. Cho đến gần đây, ví cho Bộ NN & PTNT trong việc hỗ trợ chính quyền địa dụ, phân bón tổng hợp nằm dưới sự quản lý của Bộ phương ngăn chặn, tiêu huỷ các loại thuốc trừ sâu cấm và Công Thương và phân bón tự nhiên thuộc Bộ NN phạt tiền đối với người vi phạm. & PTNT, không có cơ quan nào giám sát cả hai loại phân bón. Các vai trò và trách nhiệm về môi trường Mặc dù sự bùng nổ hành động pháp lý đang diễn ra này nông nghiệp được giao cho một loạt các phòng ban là một bước quan trọng để đạt được sự kiểm soát đối với trong cả Bộ TNMT và Bộ NN & PTNT, tuy nhiên ô nhiễm môi trường ở nông trại nhưng nhiều thách thức thiếu sự phối hợp giữa các bộ phận, cũng như sự rõ trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại, một sự lựa ràng về sự khác nhau giữa vai trò và trách nhiệm của chọn được thảo luận dưới đây. người sử dụng (nghĩa là chúng liên quan đến nhau 35 Các luật này bao gồm các luật vẫn còn trong các cuốn sách như Luật Bảo vệ Môi trường (2005), Luật Quản lý và Sử dụng Tài nguyên Nước (2008), Luật đa dạng sinh học (2008), Luật An toàn Thực phẩm (2010) Luật về phí môi trường (2010) và Luật Đất đai (2013). Các phát hiện 17 Hình 8.  Các biện pháp pháp lý chính liên quan đến chính sách nông nghiệp và môi trường kể từ 2004 Luật Bảo vệ Môi trường Luật Thú ý Luật Kiểm dịch và Bảo vệ thực vật Luật về Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật Chỉ thị về việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử Chỉ thị về tăng cường quản lý việc sản xuất, buôn bán và sử dụng các chất kháng sinh trong chăn nuôi, lý việc nhập lậu, vận thủy sản và an toàn vệ sinh thực phẩm chuyển, buôn bán và sử dụng thuốc bảo vệ thực Thông tư về giám sát dư lượng các chất độc hại trong động vật và sản phẩm động vật thủy sản vật nhâp lậu Thông tư quy định nhiệm vụ các chi cục và các tổ chức sự nghiệp trực thuộc sở Nông nghiệp và Thông tư về các chất Phát triển nông thôn kháng sinh được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi Các thông tư và quyết định liên quan đến quản lý thuốc trừ sâu, thực hành nông nghiệp tốt, công nghệ khí biogas, nguyên liệu sinh học v.v. Luật Thủy sản sửa đổi Các Quy chuẩn, Tiêu chuẩn trong Lật Thủy sản quản lý ô nhiễm môi trường Nghi định Quy Luật Môi trường định về chức (đã hết hiệu lực) năng, nhiệm vụ, Nghi định Chống ô Nghị định về quản quyền hạn và cơ nhiễm môi trường lý phân bón cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp Nghị định về Quản lý thức và Phát triển ăn chăn nuôi và thủy sản Nông thôn 2004 2005 2010 2013 2014 2015 2016 2017 Năm có hiệu lực Luật Giải pháp thi hành Quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật Lưu ý: Xem chi tiết trong Các giải pháp pháp lý trong Phụ lục riêng có trên trang mạng. Biểu đồ cho thấy các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường đang còn hiệu lực và tập trung vào các văn bản có liên quan đến ô nhiễm trong sản xuất nông nghiệp. Các năm được nêu trong biểu đồ thể hiện năm văn bản đó có hiệu lực.. như thế nào). Chẳng hạn chỉ riêng Bộ Nông nghiệp đã bị ô nhiễm đến mức thể sử dụng cho sinh hoạt, và và Phát triển Nông thôn, Cục Trồng trọt, Cục Chăn trong một số trường hợp thậm chí là sử dụng trong nuôi và Cục Thú y mỗi bên có bộ phận quản lý môi nông nghiệp (như thủy lợi và nuôi trồng thủy sản).36 trường riêng; Trong khi nhiều bộ phận chức năng Một hậu quả minh hoạ khác là, trừ khi người tiêu trong Tổng cục Thủy sản - không có bộ phận chuyên dùng bị thiệt mạng (nếu có thể được khôi phục lại môn về môi trường - cũng có trách nhiệm quản lý nguồn gốc của chúng), nông dân sẽ không phải chịu môi trường. những hậu quả pháp lý liên quan đến việc sử dụng các hoá chất nông nghiệp có chất độc cao và bị cấm Một lần nữa, vấn đề chính là thiếu phối hợp. Cho hoặc các chất hóa học nông nghiệp có thể sử dụng đến gần đây, vai trò và trách nhiệm cũng không quá mức (hoặc lạm dụng) nói chung. được phối hợp hoặc còn chồng chéo ở cấp tỉnh và địa phương, một tình huống được công nhận là dẫn •• Chính phủ dường như đang tiến hành các bước đến tình trạng giám sát không đầy đủ về hoá chất chủ động để cải thiện việc sử dụng và điều phối nông nghiệp, dư lượng nông nghiệp và chất thải, dẫn nguồn lực, đồng thời tăng cường năng lực theo dõi đến hậu quả môi trường. Để minh họa cho hậu quả, và thực thi, một phần bằng cách sử dụng tốt hơn không có trường hợp nào được đưa ra án phạt hoặc nguồn nhân lực / kỹ thuật và tài chính. Ví dụ, năm hình phạt đối với sự ô nhiễm của các con sông như 2015, Bộ NN & PTNT và Bộ Nội vụ (MHA) đã Sông Cầu, Nhuệ, Ngày và Đồng Nai, mặc dù chúng ban hành các hướng dẫn để làm rõ và tinh giản vai 36 Mức BOD5, COD và TSS của họ cao gấp nhiều lần các tiêu chuẩn được quy định cho "cấp nước sinh hoạt với điều trị thích hợp" và một số phần vượt tiêu chuẩn nông nghiệp (tiêu chuẩn A1 và B1 quy định tại QCVN 08: 2008) với các nguồn ô nhiễm bao gồm Các nguồn trong nước và công nghiệp. Các nguồn nông nghiệp có thể đóng góp lớn hơn cho sự ô nhiễm của sông Tiền và sông Hậu, trong số đó, ở đồng bằng sông Cửu Long (Bao Anh 2016 [http://thanhtra.com.vn/xa-hoi/ moi-truong/nguon-nuoc-song-ngay-cang-o-nhiem-nghiem-trong_t114c1143n101615]). 18 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt trò và trách nhiệm về môi trường nông thôn của các do Bộ NN & PTNT và Bộ TNMT đưa ra đã giảm cơ quan hành chính khác nhau của Sở NN & PTNT từ việc áp dụng và thực thi trong ngành nuôi trồng để khắc phục mức độ phân tán cao về kiểm soát ô thuỷ sản. Trong một số trường hợp, sự phù hợp của nhiễm nông nghiệp Các nỗ lực ở cấp tỉnh. Bộ NN & các điều khoản quy định bị đe doạ, như khi chúng PTNT sau đó sáp nhập và tổ chức lại một số phòng không phù hợp với năng lực của các trang trại - hoặc hành chính ở cấp tỉnh, chỉ có một bộ phận chịu trách để hiểu hoặc tuân theo chúng. Ví dụ, các tiêu chuẩn nhiệm giám sát ô nhiễm cây trồng, vật nuôi và nuôi nhất định để quản lý sản xuất chăn nuôi (cụ thể là trồng thủy sản.37 Năm 2016, Bộ NN & PTNT cũng quản lý nước thải) không phù hợp với thực tế của các đã từng bước huy động các nguồn lực địa phương bộ phận lớn của ngành. (con người, tài chính, vật liệu) và xây dựng kế hoạch tăng cường giám sát nông nghiệp-môi trường, tập •• Khó khăn và sự miễn cưỡng của các cơ quan có trung vào các vùng nuôi thâm canh của đất nước thẩm quyền để thực thi các luật và quy định về môi như đồng bằng sông Cửu Long. Các ưu tiên đã được trường đặc biệt đối với các hộ nông dân nhỏ và đặt ra bao gồm giảm sử dụng hóa chất nông nghiệp; không có khả năng tuân thủ của các trang trại. Mặc Tăng cường xử lý và tái chế dư lượng nông nghiệp dù, những hộ nông dân nhỏ đóng góp đáng kể cho và chất thải; Tăng cường áp dụng các kỹ thuật canh ô nhiễm môi trường nông nghiệp, nhưng hoạt động tác và tiên tiến "tiên tiến"; Loại trừ việc sử dụng một của họ, như đã nêu, rất khó khăn, hầu như là không số chất bảo vệ thực vật độc hại (có nghĩa là thuốc thể giám sát được. Hơn nữa, họ thường bị coi là dễ trừ sâu), bao gồm kiểm soát việc nhập khẩu và bán bị tổn thương - bao gồm cả những ảnh hưởng của ô thuốc trừ sâu bất hợp pháp và đã hết hạn sử dụng; nhiễm không lưu thông38—và thiếu năng lực. Và quả Và hướng dẫn việc thu gom và xử lý các bao bì đã thực, đôi khi họ thiếu năng lực về tài chính, không sử dụng của hóa chất nông nghiệp và thuốc thú y. gian vật lý hoặc kỹ năng và chuyên môn để áp dụng Thông tư trước đây đã được Bộ NN & PTNT đang các công nghệ hoặc thực tiễn nhất định và đáp ứng chuẩn bị cũng nhằm mục đích cải thiện sự phối hợp các tiêu chuẩn nhất định. liên quan đến chính sách nông nghiệp và môi trường. •• Các biện pháp khuyến khích và không khuyến •• Thiếu sự cụ thể hoặc chồng chéo trong các điều khích kinh tế không có khả năng thuyết phục hoặc khoản quy định đôi khi cản trở việc thực thi. Trong can thiệp cho nông dân. Hình phạt đối với việc một số trường hợp, các cơ quan chức năng đã gặp không tuân thủ luật pháp và các quy định - ngay cả khó khăn để chứng minh rằng các vi phạm đã xảy ra, khi bị áp đặt (xem vấn đề "không thể thực hiện được" vì lý do kỹ thuật, hoặc do thiếu sự rõ ràng pháp lý theo những thách thức của việc theo dõi các trang khi có các thông tư hướng dẫn khác nhau. Trong các trại nhỏ và các nguồn phipoint, ở trên) - nói chung trường hợp khác, các hành vi gây hại cho môi trường- là không đầy đủ (Bộ NN & PTNT 2016b). Trong ví dụ như sử dụng điện trong thủy sản-đã được thực khi đó, trọng tâm của chính phủ dường như vẫn còn hiện một vài bước trước các quy định về quy định và phần lớn là nhằm kiểm soát và trừng trị những thực không được mô tả rõ ràng hoặc kết nối với một hành tiễn xấu (ví dụ kiểm tra phân bón nhập khẩu ở biên động khắc phục rõ ràng. Trong một số trường hợp giới, yêu cầu đăng ký hóa chất nông nghiệp đang (ngay cả khi không có khả năng trang trại), khả năng được nhập khẩu, bán hoặc sản xuất trong nước, trừng chịu trách nhiệm của các cơ quan có trách nhiệm của phạt việc sản xuất phân bón giả và đe dọa những các cơ quan đã trở nên phức tạp do các quy định trùng người vi phạm với khoản tiền phạt còn ít) thay vì can lặp dẫn đến sự nhầm lẫn thực sự hoặc có thể làm suy thiệp bằng cách phòng ngừa và sử dụng một loạt các yếu cơ sở cho việc thực thi của họ. Việc chồng chéo khuyến khích kinh tế bao gồm cả "cà rốt" và "gậy" để các tiêu chuẩn quản lý nước thải nuôi trồng thủy sản gây ra thay đổi hành vi. 37 Các biện pháp đang được đề cập đến là Thông tư liên tịch số 14/2015 / TTLB-BNNPTNT-BNV và Bộ Nông nghiệp và PTNT số 15/2015 / TT-BNNPTNT của Bộ Thủy sản / Bộ NN & PTNT, trong đó nêu chi tiết cụ thể hơn về những gì đã thay đổi. 38 Gần đây nhất là kết nối với một số vụ cá chết hàng loạt do các trường hợp ô nhiễm công nghiệp lặp lại và nghiêm trọng ở sông Am ở Thanh Hóa và các tỉnh khác. Các phát hiện 19 •• Các biện pháp định hướng cấu trúc nhằm ngăn ngừa ô nhiễm hoặc những tác động tồi tệ nhất của nó vẫn là ngoại lệ và cho đến nay vẫn còn những kết quả hạn chế. Cụ thể, chính sách của Bộ NN & PTNT trong khuôn khổ Chương trình Tái cơ cấu Ngành Chăn nuôi nhằm tái phân phối sản xuất chăn nuôi thương mại "quy mô lớn" trong không gian - và đặc biệt để đẩy các hoạt động này ra khỏi các trung tâm dân số đông đúc và đến những khu vực sản xuất an toàn sinh học " Khu vực - là một ví dụ về một biện pháp nhằm định hình bố cục và mật độ địa lý của ngành.39 Tuy nhiên, từ quan điểm này, ngành công nghiệp vẫn gần như trì trệ. Sự tiếp tục duy trì sự chi phối của các tiểu nông trường nhỏ (không được mục tiêu rõ ràng bởi chính sách) cũng không giúp ích gì. Cùng với những thách thức trong thực hiện, có thể một số chính sách của chính phủ đã gây ra các hoạt động hoặc hoạt động nông nghiệp gây ô nhiễm gián tiếp. Các ví dụ khả thi về sự can thiệp của chính phủ hai mặt có thể bao gồm trợ cấp phân bón ngầm (thông qua các chính sách thuận lợi cho các công ty phân bón quốc doanh) và đầu tư xây dựng các đê "bảo vệ" (để giảm nhẹ ngập lụt và cho phép thu hoạch nhiều hơn một năm, chúng có thể gây hậu quả cho độ màu mỡ của đất). Bất kỳ việc theo dõi nhanh các trang trại chăn nuôi hoặc cấp giấy phép của họ với ít kế hoạch và cơ sở quản lý môi trường sẽ là một ví dụ khác về một mục tiêu chính sách (như hỗ trợ khả năng sản xuất chăn nuôi) đang được theo đuổi với chi phí của một số khác (sức khoẻ con người và môi trường).40 39 Ví dụ, một trong những mục tiêu của nó là làm giảm tỷ lệ sản lượng lợn quốc gia của vùng đồng bằng sông Hồng từ 26% lên 15% vào năm 2020 và vùng ĐBSCL chiếm từ gần 11% đến 5%. 40 Để minh hoạ một hình thức không tuân thủ thường bị bỏ sót, các trang trại chăn nuôi tập trung, ví dụ như hộ nuôi hơn 100 con lợn, được yêu cầu phải có một hệ thống xử lý chất thải thích hợp như máy hầm biogas. Tuy nhiên, các trang trại thiếu nguồn lực sử dụng hoặc thị trường cho lượng năng lượng "lớn" mà các chất sinh học gây ra và không có động lực để đầu tư vào một hoặc sử dụng nó như đã thiết kế. Do đó, nhiều trang trại hoặc thiếu cơ sở quản lý chất thải phù hợp hoặc thải biogas và chất thải trực tiếp vào môi trường, gây ô nhiễm nước và không khí hoặc khí hậu. ĐỊNH HƯỚNG TIẾP THEO Trong tương lai, Việt Nam có thể đạt được những bước tiến quan trọng khi xem xét đầy đủ các cân nhắc về tính bền vững vào các chính sách, chiến lược và chương trình tăng cường nông nghiệp của đất nước và thực hiện hiệu quả hơn. Đây không chỉ là y tế công cộng và sự cần thiết về mặt sinh thái (tình hình của Trung Quốc cảnh báo về chi phí cao có thể có của chính sách không hiệu quả). Đạt chất lượng sản phẩm cao hơn, an toàn thực phẩm và hiệu quả môi trường cũng cần thiết để duy trì sản lượng nông nghiệp và tăng giá trị cao, giúp cho xuất khẩu nông nghiệp của Việt Nam tăng trưởng liên quan đến các thị trường đòi hỏi cao nhất. Khả năng đạt được đã được ghi nhận trong nỗ lực nhằm tăng doanh số bán gạo chất lượng cao, mang nhãn hiệu và để đáp ứng các tiêu chí tìm nguồn cung bền vững mà các công ty quốc tế đang tìm kiếm. Tiềm năng đáng kể có thể cải thiện nằm ở việc áp dụng tốt hơn khuôn khổ luật pháp và quy định hiện hành của Việt Nam về kiểm soát ô nhiễm. Đối với điều này, nhà nước cần phải can thiệp theo cách cung cấp cho nông dân các giải pháp kỹ thuật tốt hơn và cũng có thể thay đổi các ưu đãi của họ để khuyến khích việc thông qua và / hoặc tuân thủ. Thực hành nông nghiệp tốt của quốc gia (GAPs) đã được phát triển trong một số lĩnh vực và chín muồi để mở rộng quy mô. Cần có những nghiên cứu sâu hơn để hiểu sâu hơn về những gì hạn chế việc áp dụng những thực tiễn này và có thể định hướng các nguồn lực một cách hiệu quả cho mục tiêu đó. Đồng thời, cần có thêm nỗ lực nghiên cứu và đổi mới trong nhiều lĩnh vực để hỗ trợ phát triển hoặc thích ứng với các GAP mới. Cần phải phát triển các chương trình quảng bá và hỗ trợ việc nhận con nuôi của họ với sự xem xét đầy đủ về thực tiễn và động lực của chuỗi giá trị và các ưu đãi về kinh tế của nông dân. Thông báo liên quan đến chương trình cũng có thể cần phải điều chỉnh. Thông thường, nông dân chấp nhận GAPs không nhận được giá cao hơn cho sản phẩm của họ, hoặc chỉ một khoản phí bảo hiểm rất nhỏ. Lợi ích chính của nông dân thường nằm ở những nơi khác, dưới dạng chi phí đầu vào giảm và mức độ tiếp xúc thấp hơn của các hộ nông dân và cộng đồng với các hóa chất và kháng sinh. Nhà nước có thể xây dựng các chương trình giám sát và thực hiện có hiệu quả hơn để giải quyết các vấn đề ô nhiễm nông nghiệp, đặc biệt là các trang trại thương mại được tăng cường. Các hoạt động này sẽ được tạo điều kiện thông qua sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các cơ quan như Bộ NN & PTNT / Sở NN & PTNT, Bộ TNMT / Sở TNMT, các 22 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt sở y tế và an toàn thực phẩm. Các quy trình công bố thông nhiễm nông nghiệp và đánh giá chuẩn quốc tế để xác tin về chất lượng và dấu vết đối với môi trường của sản định những khoảng trống tiềm ẩn và đánh giá sự phù xuất nông nghiệp cũng cần phải được phát triển để tránh hợp trong bối cảnh thực tế của ngành nông nghiệp sự lo ngại vô căn cứ của người dân và thúc đẩy nhu cầu thị quốc gia. Điều này cũng có thể được thực hiện liên trường đối với các sản phẩm có được từ các thực tiễn nông quan đến các phương pháp được sử dụng để thực nghiệp bền vững. hiện và thực thi các biện pháp pháp lý. Những ưu tiên trong tương lai bao gồm: 7. Củng cố việc thi hành các luật và quy định về môi trường hiện tại, bao gồm thông qua các khoản đầu 1. Tăng cường nhận thức về ô nhiễm nông nghiệp và năng lực tư vào vốn con người và trang thiết bị,  giữa các nhà hoạch định chính sách,người tiêu và nguồn lực của các đơn vị (công cộng hoặc cộng dùng, cộng đồng bị ảnh hưởng và các nhà sản xuất đồng) với vai trò giám sát. của đất nước bằng cách sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm đưa vào các giáo trình giảng dạy, 8. hát triển và phổ biến hướng dẫn kỹ thuật về thực tổ chức các ngày nâng cao nhận thức, thăm thực địa, tiễn nông nghiệp tốt có liên quan đến bối cảnh,bao tổ chức sự kiện, tìm kiếm các giải pháp, các kết quả. gồm quản lý đầu vào và quản lý chất thải, cho nông dân và nhà cung cấp dịch vụ, và mở rộng các thực 2. Xử lý một cách có hệ thống sự ô nhiễm và các hệ hành nông nghiệp đã được chứng minh bằng các bài lụy liên quan đến tất cả các chính sách công, các kế học kinh nghiệm từ các dự án thành công (và kém hoạch khuyến khích, đầu tư, và các chương trình thành công) Và các chương trình (như VietGAP, giữa các ngành với ảnh hưởng đến các hoạt động 3G3R [3 tăng 3 giảm], 1P5G, và các tiêu chuẩn quốc nuôi trồng,tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn liên tế tư nhân). Điều này có thể được thực hiện bằng quan đến nông nghiệp. nhiều cách khác bằng cách phát triển các chương trình khai thác hoặc làm tăng các ưu đãi kinh tế cho 3. Kết hợp kế hoạch đánh giá và đánh giá ô nhiễm nông dân (hoặc các nhà cung cấp dịch vụ trang trại) nông nghiệp vào tất cả các chương trìnhnông để áp dụng các thực tiễn tốt hơn. nghiệp trong tương lai và dự án nông nghiệp. 9. Tài trợ cho học tập và nghiên cứu bao gồm nghiên 4. Tăng cường năng lực quốc gia và địa phương để cứu khoa học xã hội  về các nhân tố thúc đẩy và tác giám sát có hệ thống ô nhiễm nông nghiệp, c  ó lẽ động của ô nhiễm và các biện pháp đối phó hiệu quả ban đầu tập trung vào một số mặt hàng quan trọng đối với các vấn đề ô nhiễm chính nhằm hỗ trợ việc hoặc các điểm nóng về "ô nhiễm nông nghiệp" đã xác định ưu tiên các nguồn lực công và dựa vào bằng biết. chứng và thiết kế và thực hiện các hoạt động ứng phó. 5. Liên quan đến các "điểm nóng" ô nhiễm nông 10. Thiết lập các quy trình chính thức để đánh giá định nghiệp, xây dựng các kế hoạch hành động  với các kỳ chính sách và hiệu quả của chương trình, d  ựa bước thời gian và mục tiêu kết quả. Các kế hoạch có trên các bằng chứng đang nổi lên do việc giám sát và thể được phát triển ở các quy mô địa lý khác nhau, nghiên cứu về ô nhiễm liên tục và đề xuất các thay bao gồm các cấp chính quyền khác nhau và với sự đổi đối với các chính sách và chương trình trên cơ sở tham gia của các nhóm sản xuất và cộng đồng bị ảnh các kết quả. hưởng. Những điều này có thể giải quyết những vấn đề như các biện pháp pháp luật và việc thực thi cũng như các khuyến khích và động cơ của nông dân, và các động lực về cơ cấu gây ô nhiễm. 6. Rà soát các quy định hiện hành và các tiêu chuẩn đến công tác phòng ngừa và kiểm soát ô liên quan  CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO Abbas, F., và Ali Fares (2009. "Các biện pháp quản lý tốt nhất để giảm thiểu ô nhiễm nguồn không nguồn trong nông nghiệp, SCM-26". Trường Cao đẳng Nông nghiệp Nhiệt đới và Nguồn nhân lực, Đại học Hawaii tại Manoa. Amarasinghe, U. A., C. T. Hoành, D. D'haeze, và T. Q. Hùng. 2015. "Hướng tới sản xuất cà phê bền vững ở Việt Nam: Cà phê nhiều hơn với ít nước hơn" Hệ thống nông nghiệp 136: 96-105. Http://dx.doi.org/10.1016/j.agsy.2015.02.008. Anh, D. T. 2002. "Cơ sở khoa học để sử dụng thuốc BVTV đúng và có hiệu quả trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam." Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội. Anh, P. T., C. Kroeze, S. R. Bush, và A. P. J. Mol. 2010a. Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản 42: 108-128 "Ô nhiễm nước do sản xuất cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam: Nguyên nhân và các biện pháp kiểm soát". ———. 2010b. "Ô nhiễm nước do canh tác nương rẫy ở Đông Nam Việt Nam: Nguyên nhân và các biện pháp kiểm soát." Quản lý nước nông 97: 872-882. Arvai, A.G. Klecka, S. Jasim, H. Melcer, và M. T. Laitta. 2014. "Bảo vệ hồ Great Lakes của chúng ta: Đánh giá hiệu quả của các phương pháp xử lý nước thải để loại bỏ các hóa chất đang nổi lên." Tạp chí nghiên cứu chất lượng nước 49 (1): 23-31. Doi: 10.2166 / wqrjc.2013.104. Bùi, Nga Thị, Hưng Xuân Võ và Nhan Phan Nguyen. Năm 2013. "Hiện trạng và giải pháp cho các cơ quan quản lý chất thải rắn trong trồng lúa ở tỉnh Hậu Giang." Đại học Cần Thơ 29: 83-88 (tiếng Việt). Https://sj.ctu.edu.vn/ql/docgia/tacgia-2310/ baibao-10326.html. Chea, R., G. Grenouillet, và S. Lek. 2016. Bằng chứng về sự suy thoái chất lượng nước ở vùng hạ lưu sông Mêkông được minh họa bằng bản đồ tổ chức tự tổ chức. PloS one 11 (1): e0145527. Doi: 10.1371 / journal. Pone.0145527. Chung, D.K., và K. T. Dung. 2002. Quản lý dịch hại trong sản xuất lúa gạo ở Việt Nam: Đánh giá kinh tế xã hội. Hà Nội: Nhà Xuất Ban Nong Nghiep.Cosslett, T. L., và P. D. Cosslett. 2013. Nguồn nước và an ninh lương thực ở đồng bằng sông Cửu Long. (Tập 44). Springer Khoa học & Kinh doanh Truyền thông. Dasgupta, S., C. Meisner, D. Wheeler, K. Xuyen, và N. T. Lam. 2007. "Ngộ độc thuốc trừ sâu của công nhân nông nghiệp - Những gợi ý của kết quả xét nghiệm máu của Việt Nam" Tạp chí Quốc tế về Vệ sinh và Sức khoẻ Môi trường 210 (2): 121-132. Http://dx.doi.org/10.1016/j.ijheh.2006.08.006. 24 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt De Silva, S. S., B. A. Ingram, N. T. Phương, B. M. Tam, G. và C. Negra biên soạn. Washington, DC: Đối tác Gooley J., và G. M. Turchini. 2010. "Ước lượng Kinh tế Sinh thái. Nitơ và Phốt pho trong Nước Thải của Ngành Hoài, P. M., Z. Sebesvari, T. B. Minh, P. H. Việt, và F. G. nuôi Cá Tra ở ĐBSCL, Việt Nam" Báo cáo Renaud. 2011. "Ô nhiễm không khí trong nông AMBIO. Doi: 10.1007 / s13280-010-0072-x. nghiệp miền Bắc Việt Nam: Nghiên cứu trường Định, T. X. 2017. "Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp hợp tại các xã Hoàng Liệt và Minh Đại" Môi ở Việt Nam: Ngành Chăn nuôi." Chuẩn bị cho trường ô nhiễm 159 (12): 3344-3350. Https:// Ngân hàng Thế giới, Washington, DC. doi.org/10.1016/j.envpol.2011.08.044. DLP-Bộ NN & PTNT (Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp Hoi, P. V., A. Mol, và P. Oosterveer. 2013. "Quản lý Nhà và Phát triển Nông thôn). 2015. Xử lý chất thải nước về Sử dụng và Thương mại Thuốc BVTV trong chăn nuôi, Hội thảo xử lý chất thải trong ở Việt Nam." NJAS-Wageningen Tạp chí Khoa chăn nuôi, thực trang và giải pháp, tháng 10, học Đời sống 67: 19-26. Doi.org/10.1016/j. 2015, Hà Nội. njas.2013.09.001. Duteurtre, G., J.-D. Cesaro, H.M. Nguyen, K.D. Phạm, Hoi, P.V., P. Mol, P. Oosterveer, P.J. van den Brink và P. và L.Ng Nguyễn. 2015. "Công ty sữa TH (Việt T.Huong. 2016. "Sử dụng thuốc trừ sâu trong sản Nam): Là một đầu tư có quy mô lớn bền vững." xuất rau Việt Nam: Nghiên cứu 10 năm. Tạp chí Báo cáo hoạt động dự án dựa trên một chuyến Quốc tế về Tính bền vững Nông nghiệp 14 (3): thăm thực hiện tại huyện Nghĩa Đàn (Nghệ 325-338. Http://dx.doi.org/10.1080/14735903. An). Trung tâm Phát triển Nông thôn CIRAD 2015.1134395. và Hà Nội, ngày 2 tháng 7. https://agritrop. Huỳnh, Ngọc Trương, Thị Ngọc Thanh Trần, và Nguyễn cirad.fr/579403/1/Report%20visit%20to%20 Tiến Dũng. 2015. "Mức độ kháng thuốc và kháng TH%20mega-farm%20VF2.pdf. sinh của Vibrio spp. Phân lập từ Nuôi trồng thuỷ Dyar, Oliver James, Hoa Quynh Nguyễn, Trung V. sản và Môi trường tỉnh Tiền Giang "Tạp chí khoa Nguyen, Phuc D. Ho, Mattias Larson, Chuc T. K. học 11. Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Nguyen, and Cecilia Stalsby Lundborg. 2012. Tỷ Minh (bằng tiếng Việt) lệ kháng kháng sinh cao trong Escherichia coli ở Jaffee, S., K. S. Dang, D.A. T. Nguyen, E. Cassou, T. T. trẻ em ở nông thôn Việt Nam. Bệnh truyền nhiễm T. Truong, T. T. Nguyen, M. Ambrosio, and D. BMC 12 (92). Doi: 10.1186 / 1471-2334-12-92. Larson. 2016. Báo cáo phát triển Việt Nam năm Erban, L. E., S. M. Gorelick và H. A. Zebker. 2014. "Khai 2016: Chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam: thu thác nước ngầm, sụt lún đất và mực nước biển dâng được nhiều hơn từ Ít hơn. Washington, DC: Ngân ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam." Các hàng Thế giới. Http://documents.worldbank. bài nghiên cứu môi trường 9 (8). Doi: 10.1088 / org/curate d/en/116761474894023632/ 1748-9326 / 9/8/084010. Transforming-Vietnamese-agriculture-gaining- FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp). 2017. "Giới more-from-less. thiệu về ô nhiễm nước nông nghiệp" Cục Tài Ju, X., B. Gu, Y. Wu, và J. N. Galloway. 2016. "Giảm việc nguyên và Môi trường, Rome. Http://www.fao. sử dụng phân bón của Trung Quốc bằng cách tăng org/docrep/w2598e/w2598e04.htm. quy mô trang trại" Thay đổi môi trường toàn cầu Gao, S., Q. Wang, D. Guan, WF Zhang, Y. Li, Z. Shi, C. 41: 26-32. Yan, K. Zhang, Z. Cui, X. Ju, F. Zhang, M. Guo, Kam, S. P., M. C. Badjeck, L. Teh, và N. Trần. 2012. "Thích R. Zhao, A. Cao, C. Ouyang, K. Qu, Y. Shao, và ứng tự trị với biến đổi khí hậu của người nuôi tôm Q. Qu. Sắp tới. "Tổng quan về Ô nhiễm nông và cá da trơn ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt nghiệp ở Trung Quốc" Chuẩn bị cho Ngân hàng Nam". Http://pubs.iclarm.net/resource_centre/ Thế giới, Washington, DC. WF_3395.pdf. Havemann, T., S. Nair, E. Cassou, và S. Jaffee. 2015. "Cà phê ở Đăk Lăk, Việt Nam." Trong Các bước tiến Khanh, D., và N. H. Thanh. 2010. "Quản lý chất thải nông tới Xanh: Các phản ứng chính sách đối với vấn đề nghiệp và tiềm năng cho các khoản trợ cấp." bài môi trường của nông nghiệp hàng hóa ở Đông và trình bày. Được trình bày tại Hội thảo khu vực Đông Nam Á, do S. Scherr, K. Mankad, S. Jaffee Tiểu vùng Mê Công mở rộng về Chiến lược quốc Các tài liệu tham khảo 25 gia về Quản lý Chất thải rắn tổng hợp / 3R, Hải MONRE (Bộ Tài nguyên và Môi trường). 2016. "Báo cáo Phòng, từ ngày 28 đến ngày 29 tháng 9. các vấn đề môi trường hiện tại trong giai đoạn h t t p : / / w w w. i g e s . o r. j p / e n / a r c h i v e / w m r / p d f / 2011-2015" Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hà activity100728/15_Khanh_Day1_Session5. Nội. pdf.Khanh, Đ. B. 2010. Nghiên cứu tính mẫn Ủy Ban sông Mêkông (MRC). 2014. "Báo cáo giám sát cảm,tính kháng thuốc của E.coli và Salmonella chất lượng nước vùng hạ lưu sông Mekong năm spp. phân lập từ bệnh lợn con phân trắng, ứng 2014." Báo cáo kỹ thuật số 60 của Ủy Ban sông dụng điều trị thử nghiệm. Luận văn Thạc sĩ. Đại Mêkông, Viêng Chăn. học Nông nghiệp Hà Nội. NIAPP (Viện Quy hoạch và Dự báo Nông nghiệp Quốc Khanh, Đ. B. 2010. Nghiên cứu tính mẫn cảm,tính kháng gia). 2014. Dữ liệu về trồng cà phê và bản đồ phù thuốc của E.coli và Salmonella spp. phân lập từ hợp về cà phê cung cấp cho Ngân hàng Thế giới bệnh lợn con phân trắng, ứng dụng điều trị thử như là một phần của việc chuẩn bị Dự án Chuyển nghiệm. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Nông nghiệp đổi Nông nghiệp Bền vững. Viện Quy hoạch và Hà Nội. Dự báo Nông nghiệp, Hà Nội. Lamers, M., M. Anyusheva, N. La, V. V. Nguyen, và T. Nguyễn, Châu Giang Đặng, Z. Sebesvari, W. Amelung, Streck. 2011. "Ô nhiễm không khí trong nước và F. G. Renaud. 2015. "Ô nhiễm môi trường các và mặt nước do canh tác lúa nước: Một nghiên nguồn nước uống đa dạng ở đồng bằng sông Cửu cứu điển hình ở miền Bắc Việt Nam". Đất sạch, Long, Việt Nam: Bằng chứng từ hai tỉnh". Nghiên không khí, nước 39 (4): 356-361. Doi: 10.1002 / cứu môi trường và ô nhiễm 22 (12): 9042-9058. clen.201000268. Doi: 10.1007 / s11356-014-4034-x. Lê, Văn Thực. 2012. Kết quả bước đầu nghiên cứu về môi Nguyễn, C.V. 2017. "Tổng quan về Ô nhiễm nông nghiệp trường trong chăn nuôi bò sữa quy mô nông hộ ở Việt Nam: Ngành Nuôi trồng thuỷ sản." Chuẩn tại Ba Vì. Báo cáo khoa học, Viện Chăn Nuôi, Bộ bị cho Ngân hàng Thế giới, Washington, DC. NN-PTNT. Nguyen, Dang Vang. 2015. Tổng quan chăn nuôi: 2012– Lien, Thuy. 2015. Mỗi năm Việt Nam nhập khẩu 2014. Báo cáo tại Hội nghị Khoa học Chăn nuôi 100.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật. (Báo đầu tư - Thú y toàn quốc ngày 28-29 tháng 4 năm 2015 online). http://baodautu.vn/moi-nam-viet- tại Đại học Cần Thơ. nam-nhap-khau-100000-tan-thuoc-bao-ve-thuc- Nguyễn, Huân Hữu, Mai V., M. M. Escalada, K. L. vat-d28417.html. Heong. 1999. "Những thay đổi trong quản lý sâu LIFSAP (Dự án Nâng cao Năng lực Cạnh tranh và An bệnh của người nông dân ở đồng bằng sông Cửu toàn Thực phẩm). 2015. "An toàn Thực phẩm Long". Bảo vệ cây trồng 18: 557-563. Https://doi. An toàn và Hiệu quả Sản xuất với Thực tiễn org/10.1016/S0261-2194(99)00059-9. Chăn nuôi Tốt" http://www.worldbank.org/en/ Nguyễn, T. H., T.H. Trần, M.Đ.Châu, và V.S. Nguyễn. results/2016/04/14/vietnam-better-food-safety- 2015. "Giám sát và đánh giá việc áp dụng các công and-production-efficiency- Với-thực hành chăn nghệ sản xuất lúa thiếc thấp 1P5G và những tác nuôi tốt. động của nó ở Kiên Giang và các tỉnh Giang. Tiến Bộ NN & PTNT (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông trình hội thảo "Dự án Gạo Lúa Carbon ở Việt thôn). 2016a. "Bảo vệ môi trường trong ngành Nam. Tổ chức Phổ biến Dự án và Hội thảo Đối nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn thoại Chính sách Vùng, Kiên Giang, ngày 15 2011-2015 và định hướng đến năm 2020." Sở tháng 4, 119-136. Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ Nông Nguyễn, T. H. 2017. "Tổng quan về Ô nhiễm nông nghiệp nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hà Nội. ở Việt Nam: Ngành Trồng trọt" Chuẩn bị cho ———. 2016b. "Báo cáo kết quả đánh giá việc thực hiện Ngân hàng Thế giới, Washington, DC. các nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong Nguyễn, T. Q. T., T. M. Phú, H. S. Ni, S. Quennery, D. T. lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, Hà Thanh Hương, T. P. Nguyễn, P. Kestemont, and Nội, Việt Nam." Bộ Nông nghiệp và Phát triển M.-L. Scippo. 2015. "Tình hình hóa chất sử dụng Nông thôn, Hà Nội. trong lứa cá, cá tra được nuôi cấy trong ao và cá rô phi được nuôi cấy ở lồng ở đồng bằng sông Cửu 26 Tổng quan về Ô nhiễm Nông nghiệp ở Việt Nam: Báo cáo tóm tắt Long" Tạp chí Khoa học ĐH Cần Thơ Số đặc biệt và các biện pháp giảm thiểu. Ambio 41 (4): 370- về Nuôi trồng thủy sản 2: 278-283 (tiếng Việt). 379. Doi: 10.1007 / s13280-012-0249-6. Nguyen, T. T. 2016. "Sử dụng thuốc trừ sâu trong trồng lúa Technoserve. 2013. "Một trường hợp kinh doanh về sản và ảnh hưởng của nó đối với cá rô đồng (Anabas xuất cà phê bền vững - Việt Nam: Một nghiên cứu testudineus) ở đồng bằng sông Cửu Long của công nghiệp của TechnoServe cho Chương trình Việt Nam." Luận án tiến sĩ. Đại học Stockholm, Canh tác Bền vững." Báo cáo chuẩn bị cho IDH, Khoa Khoa học, Khoa Địa lý Vật lý. Khoa Thủy Sáng kiến Thương mại Bền vững, Hà Nội. sản, Đại học Nông Lâm, Việt Nam. Https:// Thi, P. V. C., T. T. Dung, và D. P. H. Hiệp. Năm 2014. su.diva-portal.org/smash/get/diva2:917234/ "Hiện trạng kháng kháng sinh của Edwardsiella FULLTEXT01.pdf. ictaluri và vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây Osorio, C.G., D. E. Abriningrum, E.B. Armas, và M. bệnh trên cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long" Tạp Firdaus. 2011. "Ai được hưởng lợi từ trợ cấp phân chí Khoa học ĐH Cần Thơ năm 2014 (2): 7-14 bón ở Indonesia?" Http://documents.worldbank. (tiếng Việt). org/curated/en/483961468039869443/pdf/ Toan, P. V., Z. Sebesvari, M. Bläsing, I. Rosendahl, và F. WPS5758.pdf. G. Renaud. 2013. "Quản lý thuốc trừ sâu và dư Phạm, Thùy Thị, S. Van Geluwe, V.A. Nguyễn, và B. Van lượng của chúng trong các trầm tích và nước mặt der Bruggen. 2012. Các thực hành sử dụng thuốc và nước uống ở đồng bằng sông Cửu Long, Việt trừ sâu hiện tại và các vấn đề môi trường ở Việt Nam." Khoa học về Tổng Môi trường 452-453: Nam: Những thách thức về quản lý sử dụng thuốc 28-39. Doi: 10.1016 / j.scitotenv.2013.02.026. trừ sâu bền vững đối với cây trồng nhiệt đới ở Trần, Cường Việt, Mai Hồng Thi Nguyễn, Hiếu Quand Đông Nam Á để tránh ô nhiễm môi trường. . Doi: Nguyễn, Phương Thu Thi Trần, và Spencer 10.1007 / s10163-012-0081-x. Henson. 2013. "Sử dụng phân tích quyết định Phùng, Đức Tiến, Nguyễn Duy Điều, Hoàng Văn Lộc, các tiêu chí đa dạng để xác định và ưu tiên các and Bạch Thị Thanh Dân. 2009. Đánh giá thực giải pháp kiểm dịch động thực vật có liên quan trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi. Tạp đến xuất khẩu ở Việt Nam." Tiêu chuẩn và Quỹ chí chăn nuôi. Số 4 năm 2009. phát triển thương mại (STDF) và Bộ Nông Phương, H. H., N. T. Kê, P. H. Vân, N. Đ. Phúc, N. T. nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hà Nội. Http:// A. Đào, Trần Thị Ngọc, T. T. N. Phương. 2008. www.standardsfacility.org/sites/default/files/ Khảo sát gen kháng sinh của mốt số vi khuẩn gây Vietnam_MCDA_report_June2013.pdf. bệnh phân lập từ thực phẩm. Y học thành phố Trần, Sỹ Nam, Nguyễn Thị Huỳnh Như, Nguyễn Hữu HCM. Tập 12. Số 4. Chiếm, Nguyễn Võ Châu Ngân, Lê Hoàng, Việt Phương, N. T., T.H. Hải, V.Nôn Sơn, T.M. Phú. 2015. và Kjeld Ingvorsen. 2014. "Định lượng rơm lúa "Hiện trạng và chiến lược sản xuất nguyên liệu theo mùa và sử dụng ở các tỉnh khác nhau ở đồng cho chế biến hải sản ở Việt Nam" Trình bày tại bằng sông Cửu Long" Tạp chí Khoa học Đại học Hội nghị Quốc tế về Chế biến Thủy sản: Chuỗi Cần Thơ bằng tiếng Việt (Phần A: Khoa học tự Sản xuất sạch hơn cho Thực phẩm Y tế, Cần Thơ, nhiên, Công nghệ và Môi trường) 32: 87-93. 7 tháng 12. Trần, Thị Ngọc Lan, Nguyễn Phượng Lê, and Nguyễn Pincus, J. 1995. "Khảo sát chính sách thuốc trừ sâu." Chưa Thanh Phong. 2014. Quản lý Nhà nước về sử hoàn thành báo cáo. FAO về IPM ở lúa gạo ở Nam dụng thuốc bảo vệ thực vật của hộ nông dân tỉnh và Đông Nam Á "Hà Nội. Thái Bình. Tạp chí Khoa học và Phát triển 12. Sa, T. T. H, và H. V. Hanh. 2008. "Các biến thể của nguồn Tripathi, Satyendra, R.Nuh Singh, và Shaishav Sharma. tài nguyên rừng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu 2013. "Phát thải từ sự tàn phá của chất thải thực Long và các định hướng bảo tồn và phát triển" Tạp vật / dư lượng sinh khối đối với chất lượng khí chí Khoa học 48, Đại học Huế (tiếng Việt). quyển." Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế về Khoa học Trái đất 1: 24-30. Http://www.isca.in/EARTH_ Sun, B., L. Zhang, L. Yang, F. Zhang, D.Norsorse, và Z. SCI/Archive/v1/i1/4.ISCA-IRJES-2013-005. Zhu. 2012. "Ô nhiễm nguồn nước không nguồn pdf. điểm nông nghiệp ở Trung Quốc: Nguyên nhân Truong, Quoc Tung. 2015. Đánh Giá Chính Sách Và Thực Hiện Chính Sách Về Sử Dụng Thuốc Bảo Vệ Các tài liệu tham khảo 27 Thực Vật Trong Nông Nghiệp Ở Việt Nam. "Báo cáo chuyên đề. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ Ngân hàng thế giới. 2012. Gạo Việt Nam, Nông dân và thuật Việt Nam, Hà Nội. Phát triển Nông thôn: Từ sự tăng trưởng thành Tu, H., N. T. Phương, F. Silvestre, C. Douny, C. T. Tao, G. công đến sự thịnh vượng bền vững. Hà Nội: Ngân Maghuin Rogister và P. Kestemont. 2006. Nghiên hàng Thế giới. cứu sử dụng thuốc và hoá chất trong nuôi tôm và ———. 2016. Quản lý rủi ro an toàn thực phẩm Việt đặc tính sinh học Enrofloxacin và Furazolidone Nam: Những thách thức và cơ hội. Hà Nội: Ngân trong tôm sú (Penaeus monodon). Tạp chí Khoa hàng Thế giới. học ĐH Cần Thơ 70-78. ———. 2017. "Quản lý rủi ro an toàn thực phẩm Việt UNIDO (Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Nam: Những thách thức và cơ hội." Ghi chú Chính Quốc). 2012. https://www.unido.org/fileadmin/ sách của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Thế giới, user_media_upgrade/Resources/Publications/ Washington, DC. Http://documents.worldbank. TCB_Resource_Guide/TSCR_2015_final.pdf. org/curate d/en/157501490724011125/ ———. 2015. "Đáp ứng tiêu chuẩn, tạo ra thị trường: V ietnam-fo o d-safet y-risks-mana g ement- Tuân thủ Chuẩn mực về Thương mại năm 2015." challenges-and-opportunities-policy-note. Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hiệp Quốc, White, P. 2017. "Ô nhiễm môi trường nuôi trồng thủy Vienna. Https://www.unido.org/fileadmin/ sản: Tổng quan về các vấn đề tập trung vào Trung user_media_upgrade/Resources/Publications/ Quốc, Việt Nam, và Philippines." Chuẩn bị cho TCB_Resource_Guide/TSCR_2015_final.pdf. Ngân hàng Thế giới, Washington, DC. Www.unido.org/tradestandardscompliance. Zhou, Y., H. Yang, H.Josler, và K. C. Abbaspour. 2010. UNU-EHS (Đại học Liên Hiệp Quốc, Viện Môi trường Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định của nông và An ninh Con người). 2010. "Báo cáo cuối cùng dân về việc sử dụng phân bón: Nghiên cứu điển về sự đóng góp của UNU-EHS đến giai đoạn đầu hình cho ranh giới đầu nguồn Chaobai ở miền của dự án WISDOM do BMBF tài trợ (Hệ thống Bắc Trung Quốc "Tạp chí Phát triển Bền vững 4 thông tin liên quan đến nước cho sự phát triển (1): 80-102. Http://www.consiliencejournal.org/ bền vững của đồng bằng sông Cửu Long ở Việt index.php/consilience/article/viewFile/44/43. Nam)" Báo cáo với Bộ Giáo dục Liên bang Đức Và Nghiên cứu. Đại học Liên Hiệp Quốc, Viện Môi trường và An ninh Nhân loại, Bonn. Vũ, Chí Cương. 2014. Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp khoa học và công nghệ trong chăn nuôi lợn công nghiệp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước. Viện Chăn Nuôi, Bộ NN-PTNT. Vuong, B. T, D. T. Lam, và L. T. M. Van. 2015. "Các vấn đề nước ngầm và Khảo sát Địa chất Thủy văn lưu vực sông Mê Công ở Việt Nam." Trong hiện trạng và các vấn đề nước ngầm ở lưu vực sông Mê Công do Kyoochul Ha, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Eunhee Lee và Ramasamy Jayakumar biên soạn. Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản Triều Tiên (KIGAM), Ban Thư ký Kỹ thuật CCOP và Văn phòng UNESCO Bangkok. Ht t p : / / u n e s d o c . u n e s c o . o r g / images/0024/002436/243616E.pdf. Wang, X. 2006. "Quản lý ô nhiễm nguồn không phải là nông nghiệp ở Trung Quốc: hiện trạng và thách thức." Khoa học và Công nghệ Nước 53 (2): 1-9. Tầng 8, Tòa nhà 63 Lý Thái Tổ Hà Nội, Việt Nam Điện thoại:+84.2439346600